"...trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng..."

Kể từ ngày 09-11-2009, khi Âu Châu bắt đầu kỷ niệm 20 năm “Bức Tường Ô Nhục” tại Đức sụp đổ. Từ đó đã kéo theo các chế độ CS khác tại Đông Âu hàng loạt rủ nhau cáo chung. Nói đến sự cáo chung của các chế độ CS tại Đông Âu có lẽ ai cũng hiểu, cái xác thối XHCN đã được những dân tộc Đông Âu nói chung và dân tộc Đức nói riêng dùng ánh sáng văn minh của nhân bản để đào sâu, chôn chặt trong tận cùng của lịch sử nhân loại. Vì vậy, trong dịp kỷ niệm này, dư luận trên toàn thế giới đã bày tỏ một sự quan tâm đặc biệt, và những người dân Việt Nam chân chính lại càng tỏ ra quan tâm hơn. Thiết nghĩ, những ngưuời Việt Nam chân chính, khi nhìn lại sự kiện thống nhất của nước Đức cách đây 20 năm, có lẽ không mấy ai thoát khỏi sự chạnh lòng, ngậm ngùi, xót xa cho dân tộc mình, ngoại trừ bọn tội đồ CSVN và những kẻ đã vì một lý do nào đó nhân tính của họ đã bị khánh kiệt

Nói về sự  thống nhất của nước Đức cách đây 20 năm, không ai có thể phủ nhận là một cuộc giải phóng dân tộc đúng nghĩa, đưa đến một niềm an vui, ấm no trong hoà bình. Toàn  thể người dân Đức hai miền Đông - Tây đã cùng nhau nô nức reo hò theo từng nhát búa mang nặng tình nhân loại, nghĩa chủng tộc, hoà chung với những dòng nước mắt hạnh phúc của bao nhiêu năm trời cách biệt, chờ đợi trong đau xót, buồn tủi chỉ vì một chủ thuyết huyền hoặc không tưởng CS. 

Nói đến sự sụp đổ cuả ”Bức Tường Ô Nhục”, nhiều người cho rằng, yếu tố then chốt quan trọng hàng đầu là do sự ảnh hưởng của cố Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Regan và cố Đức Giáo Hoàng John Paul II. Nhưng một số nhận định khác cho rằng, mặc dù không ai phủ nhận của cố Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Regan và cố Đức Giáo Hoàng John Paul II là hai nhân vật có sự ảnh hưởng sâu đậm trong việc thống nhất nước Đức. Tuy nhiên, nếu người dân Đức không có những nỗ lực từ nhiều năm và những nhà lãnh đạo Đức đã bị thối rữa lương tri như CSVN, thì chắc chắn sự thống nhất này không thể xẩy ra để giải phóng con người trở về đúng nghĩa của nhân bản... 

Tưởng nhớ cuộc thống nhất của nước Đức, đại đa số người Việt Nam có lẽ không mấy ai không chạnh lòng nghĩ đến sự thống nhất của Việt Nam vào năm 1975. Tuy hình thức cũng là một sự thống nhất, nhưng nước Đức đã thống nhất bằng tình tự dân tộc và nhân bản, giải phóng con người từ bóng tối lạc hậu, máu lửa, hận thù ra ánh sáng tự do và văn minh của hạnh phúc. Ngược lại, cuộc thống nhất của Việt Nam năm 1975 đã được xây dựng bằng máu lửa, hận thù, khủng bố, chết chóc và tù tội. Cũng từ sự thống nhất quái đản này đã đưa đến uất nhục, sầu hận cho cả một dân tộc. Và cũng kể từ giây phút thống nhất ấy, biết bao nhiêu linh hồn đã phải tức tưởi ra đi nơi các trại tập trung nơi rừng thiêng nước độc, hay trong rừng sâu, trên đại dương của  những đoạn đường di tản, vượt biên, vượt biển để tự giải thoát cho chính bản thân và gia đình... 

Sau 20 năm thống nhất, toàn thể người dân Đức ăn mừng tưởng nhớ cái ngày bắt đầu của ánh sáng và niềm tin, tình yêu và hy vọng, họ được cả thế giới ngưỡng mộ, nô nức chia sẻ. Ngược lại, mỗi lần người dân Việt Nam nhắc tới ngày thống nhất 30 -4-1975, đều ngậm ngùi xót xa cho kiếp người với uất nhục của tổ quốc, và mơ ước một ngày “Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời” của quê hương...
 

Cũng trong sự kiện này, đại đa số người dân Việt Nam nhận định, “Bức Tường Ô Nhục” của nước Đức được xây bằng những viên đá rất kiên cố, nhưng đã được san bằng cách đây 20 năm trong tình yêu nhân bản. Ngược lại cách đây 34 năm, Việt Nam thống nhất để dựng nên một “Bức Tường Ô Nhục” ngay trong lòng dân tộc mà chỉ có người dân Việt Nam có thể nhìn thấy rõ nhất nó là biểu tượng cho cái ô nhục trên tất cả các loại ô nhục trên thế gian. “Bức tường Ô Nhục” của Việt Nam không đuợc xây bằng những viên đá kiên cố như nước Đức, nhưng nó đã được xây bằng sự ngu xuẩn, vong tình, bội nghĩa của những con người đã khánh kiệt nhân tâm và thối rữa tâm hồn như CSVN. Chính vì thế mà đất nước Việt Nam ngày nay không khác nào một đống rác bầy hầy của thế kỷ. Sự thống nhất cuả CSVN đã không mang lại hạnh phúc, ấm no cho người dân mà ngược lại chỉ đem đến những đau khổ, uất nhục. Chính sự thống nhất này là cơ hội để CSVN đưa toàn thể người dân Việt Nam đi vào một nhà tù vĩ đại không cửa sổ, tạo ra một tổ quốc lở loang, có nguy cơ mất dần trong tay Tầu cộng. 

Để chia sẽ sự thống nhất hạnh phúc của dân Đức, từ giáo xứ Thái Hà, Lm mục Nguyễn Ngọc Nam Phong bày tỏ:
"Chúng tôi chia xẻ với người dân Đông Âu, nói chung là người dân Đức đã phá đổ được một bức tường ngăn cách mà do cái chủ nghĩa vô thần đó nó tạo nên."
Và để nói lên sự mơ uớc chung của cả một dân tộc đang đắm chìm trong đau khổ, nhục nhã của thế kỷ hôm nay, Lm Phong chia sẻ: 
"Là người dân trong một đất nước đang ở trong một chế độ kiềm kẹp thì không chỉ chúng tôi mà tất cả mọi người đều mong ước được giải thoát một cách nào đó để con người được hưởng trọn vẹn cái quyền mà Thượng Đế đã ban tặng cho mỗi con người, như là quyền sống, quyền tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do diễn tả những cảm nghĩ, những suy nghĩ của bản thân mình. Tiếc rằng là ở Việt Nam thì cho đến bây giờ những quyền lợi đó nó cũng chưa có."... 
Tuy nhiên, mơ ước vẫn chỉ là mơ ước, khát khao, nếu những người mơ ước không có những nỗ lực tạo nên nó. 

Sự hạnh phúc của người dân Đông Âu nói chung và dân Đức nói riêng có được hôm nay, không phải là ngẫu nhiên từ trời cao rơi xuống hay từ một thế lực nào ban phát cho họ, mà họ đã lấy về từ chính trái tim, khối óc, máu và nước mắt của họ. Từ đó, họ đã kết hợp được lòng người thành sức mạnh và cũng là chất liệu thức ngộ được những con người lãnh đạo đã một thời sắt máu, lầm lũi trong u tối. 

Để chứng minh cho điều này, đi ngược dòng tất nhiên sẽ thấy được sau Đệ nhị Thế chiến 1945, biên giới Đông-Tây nước Đức được phân định cũng giống như  bối cảnh của Việt Nam sau năm 1954. Họ cũng có những đắng cay cực nhục, họ cũng có những làn sóng tỵ nạn CS như Việt nam chúng ta, nhưng họ khác chúng ta là sự ý thức đấu tranh một cách can đảm và mạnh dạn hơn. Điển hình một số phong trào tiêu biểu tại các quốc gia Đông Âu như  Ba Lan, Hungary và Tiệp Khắc, nhưng những cuộc nổi dậy này đều bị đàn áp đẫm máu như cuộc nổi dậy của thợ thuyền tại cảng Poznan, Ba Lan năm 1956, cuộc cách mạng mùa thu Budapest 1956, và cuộc cách mạng mùa xuân thành Praha 1968..v..v Tất cả đã là những chất liệu đưa đến hạnh phúc của hôm nay.

Tóm lại, Trông người mà nghĩ đến ta, người dân Việt Nam chúng ta cũng không thể ngồi mơ ước xuông. Ngược lại, muốn có được một ngày hạnh phúc như Đông Âu nói chung và nước Đức nói riêng, người dân Việt Nam cần phải vứt bỏ những vị kỷ thấp hèn của hạ ngã, quan tâm trong mọi lãnh vực của đất nước, phát huy triệt để tinh thần “Uy vũ bất năng khuất” truyền thống của lịch sử, hầu có thể tạo được một sức mạnh đoàn kết. Lúc đó mới mong thực hiện được những khao khát của ước mơ. Riêng khối người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại cũng nên ”ép mình”, xóa bỏ những tị hiềm vô bổ để đi về một niềm tin chung, một ý chí chung. Đồng thời cảnh giác vạch mặt, tẩy chay những thần phần “thối rữa lương tri và khánh kiệt tâm hồn” đang chui luồn phá hoại trong các cơ chế hội đoàn, đoàn thể và các tổ chức Cộng Đồng. Những chiêu bài nối kết giao lưu với CSVN để cùng canh tân đất nước, hầu cảm hoá bọn tội đồ CSVN chỉ là những chiếc bánh vẽ lừa bịp, bởi lẽ Việt Nam không phải là Đông Âu. Được như vậy thì chắc chăn ngày hạnh phúc đất nước sẽ không còn xa.
·         Phạm Thanh Phương


Phạm Thanh Phương 

Trong những năm gần  đây, biển Đông là một vấn đề nóng bỏng và nhức nhối cho toàn thể dư luận trong và ngoài nước. Tất cả những sự kiện xẩy ra trên biển đông, không phải là những xung đột bình thường, mà nó chính là một vấn nạn của đất nước, nó liên quan đến mạng sống của người dân, sự tồn vong của đất nước và cũng là mối nhục quốc thể chưa từng xẩy ra trên dòng lịch sử với hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Riêng đối với tập đoàn lãnh đạo CSVN, thì hầu như không có gì xảy ra, dân chết mặc dân, ai cảm thấy nhục cứ tự nhiên mà nhục một cách “vô tư”. Còn lãnh đạo đảng thì vẫn lần lượt dắt nhau sang Bắc Kinh để tung hô “mười sáu chữ vàng” một cách máy móc, trơ trẽn như những con rối của Trung cộng. Tuy nhiên, trong trận bão số 9 vừa qua, sự kiện 17 chiếc tầu và 200 ngư dân bị Hải quân Trung cộng đánh đập, cước bóc một cách trắng trợn trong quần đảo Hoàng Sa đã tạo ra một sức ép khá mạnh mẽ từ các nguồn dư luận. Cũng từ sức ép này, có lẽ đảng và nhà nước CSVN cảm thấy không thể im lặng mãi, nên đành bật đèn xanh cho Quốc Hội lên tiếng cho có vẻ quan tâm, mong rằng có thể trấn an dư luận được phần nào của hiện tại.  
Xoay quanh sự kiện RFA đưa tin, nhân phiên họp Quốc hội CSVN tuần qua, ông Lê Quang Bình, chủ nhiệm “Uỷ Ban Quốc Phòng-An ninh Quốc Hội” có đưa ra đề nghị thành lập “Đội dân quân bảo vệ biển”. Theo ông Bình, “với Luật dân quân tự vệ, Việt Nam sẽ phát triển tốt hơn lực lượng dân quân, tự vệ biển, làm nòng cốt bảo vệ người dân trên biển cũng như giúp họ xác định tốt hơn đâu là vùng biển của Việt nam, đâu là vùng biển của nước ngoài”. Cũng theo đề nghị này, ngư dân Việt Nam sẽ được trang bị vũ khí và một số trang thiết bị để có thể xác định vị trí trên biển, tránh tình trạng đi lạc vào hải phận của các quốc gia khác. Đồng thời họ có thể tự bảo vệ khi bịp cướp...v..v 
Trước đề nghị  quái đản này, đại đa số ngư dân và dư luận nhận định, nếu ông Bình cho rằng trang bị vũ khí để ngư dân có thể tự vệ là một điều quá ngu xuẩn, điều này đã không giúp được gì mà còn đưa ngư dân đi vào chỗ chết. Bởi lẽ ai cũng hiểu, những sự kiện ngư dân Việt Nam phải đối diện trên biển đông không phải là những bọn cướp vặt, mà là một lực lượng Hải quân được trang bị đầy đủ vũ khí tối tân của một trong những cường quốc hiện tại trên thế giới là Trung cộng. Hơn nữa, một khi ngư dân được trang bị vũ khí, tất nhiên sẽ bị Trung cộng liệt kê họ vào loại cướp biển, để có thể ra tay cước bóc, tàn sát một cách danh chính, ngôn thuận như hiện tượng 9 ngư dân Thanh Hoá trước đây.  
Một điều khôi hài là khi đưa ra đề nghị này, chính ông Bình cũng thừa nhận trong quá khứ CSVN cũng đã từng võ trang hoá một số tập đoàn đánh cá quốc doanh, và khi tàu ngư dân Việt Nam “lạc” vào vùng biển nước ngoài, họ đều bị quy là cướp biển. Tuy biết thế, nhưng ông Bình vẫn đưa ra đề nghị và cố ngụy biện rằng, nhà nước CSVN sẽ cấp giấy phép giữ vũ khí cho ngư dân để tránh sự “ngộ nhận” như đã từng xẩy ra. Một câu hỏi được đặt ra ở đây, là một khi Hải quân Trung cộng đã cố ý cướp, thì họ có cần hỏi giấy phép giữ vũ khí không ? Và những tờ giấy ấy nhà nước CSVN cấp sẽ có giá trị gì? Hay cũng chỉ là những miếng giấy lộn không hơn, không kém đối với Trung cộng.
Cũng trong sự kiện này, về phía ông Bình thì cho rằng đây là một thượng sách có “Nhất Cử Lưỡng Tiện”, dùng để trấn an ngư dân, và cũng để chứng tỏ rằng đảng, nhà nước cũng quan tâm thương dân như đã rêu rao. Đồng thời dùng ngư dân như những tấm bia đỡ đạn, thay thế cho Hải quân CSVN trong việc canh giữ vùng biển một cách “tế nhị” không làm mất lòng đàn anh Trung cộng. Tuy thế, nhưng dựa trên thực tế, ngư dân Việt Nam cũng nhìn ra sự bịp bợm tai hại này một cách rõ rệt, họ chẳng bao giờ dại dột chấp nhận. Ngược lại, họ đòi hỏi đảng và nhà nước phải có trách nhiệm gửi “Cảnh sát biến” hoặc Hải quân ra giữ an ninh cho họ.
Cũng theo RFA, trong một đoạn đoạn phỏng vấn, một ngư dân đã từng bị cướp, đánh đập cho biết  "Nói chung bây giờ họ giao súng, em cũng không dám đâu, tàu của họ có súng hai nòng lớn lắm nếu có gì thì họ bắn chết."... Một câu hỏi khác được đại đa số đặt ra ở đây là, tại sao đảng và nhà nước cứ phải loanh quanh, khôi hài như thế này, một chủ nhiệm “Uỷ Ban Quốc Phòng-An ninh Quốc Hội” như ông Bình mà chẳng lẽ không hiểu được nhiêm vụ của lực lượng quân đội là bảo vệ đất nước và người dân hay sao? Lực lượng Hải quân của CSVN dùng để làm gì mà không dám bảo vệ dân? Một nhà nước của “nhân dân”, lúc nào cũng rêu rao, gào thét vì dân, thương dân, yêu dân như “Bác Hồ yêu các cháu nhi đồng”. Một “Quân Đội Nhân Dân Anh Hùng”, đã từng hãnh diện với ba chiến thắng vĩ đại là thắng ba đế quốc “Nhật-Pháp- 
Mỹ”, nhưng bây giờ chẳng hiểu cái “Anh hùng” đã trốn đi đâu mất rồi? Mà ngày nay chỉ toàn thấy một đám “ăn hại đái nát” tham nhũng bóc lột dân, và đưa dân vào chỗ chết một cách rất đểu cáng như đề nghị của chủ nhiệm “Uỷ Ban Quốc Phòng-An ninh Quốc Hội” vừa qua.  

Nói riêng về chức năng và nhiệm vụ của quân đội, thêm một câu hỏi khác nữa được đưa ra ở đây là, nhiệm vụ của Hải quân CSVN là cái gì, chẳng lẽ cả một lực lượng Hải quân mà chỉ để dùng chuyển tải hàng lậu, chuyên chở tài nguyên quốc gia đi bán cho ngoại bang hay sao ? Hay Hải quân của CSVN là một lực lược trừ bị, chỉ thi hành chức năng khi có lệnh của Trung cộng kêu gọi như hiện tượng bốn chiến hạm đã “Hồ hởi, phấn khởi” tìm kiếm hai ngư thuyền và 13 ngư dân của Trung cộng bị mất tích trong vùng đảo Bạch Long Vĩ vừa qua. Như vậy, lực lượng Hải quân CSVN dùng để bảo vệ cho ai, bảo vệ tổ quốc nào, có lẽ ai cũng biết, nhưng chắc chắn không phải Tổ quốc và dân tộc Việt Nam. 
Trước những thực tế phũ phàng, nhưng vấn đề được toàn dân đau khổ quan tâm hiện nay, không phải đơn thuần chỉ là những hiện tượng ngư dân bị Hải quân Trung cộng bắt bớ, đánh đập, cướp bóc. Mà vấn đề tối quan trọng vẫn là giang sơn và quốc thể, một khi giang sơn và quốc thể được bảo toàn, thì chắc chắn những sự kiện bắt bớ, đánh đập cướp bóc của Hải quân Trung cộng đối với ngư dân Việt Nam trên biển đông sẽ tự động được chấm dứt. Điều đáng nói là những sự kiện Trung cộng chiếm đóng Hoàng Sa, lấn áp Trường Sa, vẽ lại bản đồ, khoanh vùng biển hình lưỡi bò gần như nuốt trọn một vùng lãnh hải của Việt Nam. Nhưng tập đoàn lãnh đạo CSVN vẫn gục đầu “án binh bất động”, coi như không có gì xẩy ra, thậm chí còn cố gắng dùng mọi thủ đoạn, bạo lực để bịt miệng người dân khi họ bày tỏ những nỗi sót xa, uất nhục từ những tấm lòng yêu nước. Như vậy, những gì ông Bình đề nghị có phải là một trò hề hay không? Có lẽ ai cũng biết.  
Tóm lại trước hiện tình đất nước, tất cả những ai còn có lòng với tiền đồ cuả dân tộc, biết đau cái  đau của dân, biết nhục cái nhục của nước, thiết nghĩ chúng ta nên mạnh dạn trong mọi lãnh vực có thể trong khả năng. Sáng suốt nhận định và cảnh giác trước những “viên thuốc độc bọc đường” của Việt gian và Việt Cộng đưa ra như “Hãy cùng bắt tay nối kết, hoà hợp để cùng canh tân đất nước, từ đó sẽ dùng tình thương xoá bỏ hận thù, cảm hoá để CSVN giác ngộ quay về với chính nghĩa quốc gia,v,v...”. Ngược lại, hãy dựa trên những bằng chứng thực tế, đừng bao, dại dột giờ tin tưởng CSVN sẽ thay đổi, cho dù chế độ ấy có được thay thế bằng những thế hệ “CS con”. Bởi lẽ tục ngữ Việt Nam có câu “Trứng Rồng sẽ đẻ ra Rồng- Liu điu thì vẫn một giòng Liu điu” không thể khác. Tất cả những lý luận, biện luận cho CSVN ngày nay, chỉ là sự lừa bịp, ru ngủ trong đấu tranh, không ngoài mục đích mong biến cộng đồng người Việt tỵ nạn trở thành thần dân của chế độ vong nô, hèn nhược CSVN, hầu có thể triệt thoái toàn thể tinh thần đấu tranh của người dât Việt Nam nói chung. Một điều cuối cùng cần ghi nhớ là “CS không bao giờ thay đổi, chỉ có thể thay thế” như ông Boris Yeltsin đã nói. Chỉ có sức mạnh đoàn kết của dân tộc mới thực sự là một thế lực có thể triệt thoái được cái thể chế vong nô, thối nát CSVN, tái tạo hạnh phúc, an vui cho dân tộc và rửa hờn cho non sông. Không thể trông mong vào bất cứ thế lực nào, khi sức mạnh của dân tộc vẫn còn đang say ngủ.  



Phạm Thanh Phương


Phạm Thanh Phương

Cái gì đến rồi sẽ đến, “Đại Hội Việt Kiều” cũng đã khai mạc với trên dưới một ngàn người mà CSVN gọi là “đại biểu Việt kiều”. Nhìn vào danh sách “đại biểu”, có lẽ ai cũng thấy đại đa số là những tên tuổi hầu đã về từ các nước CS cũ vùng Đông Âu, mà cộng đồng người Việt tỵ nạn CS cũng chưa từng biết qua. Ấy thế mà CSVN vẫn oang oang tuyên bố với RFA là đó là các “Đại Biểu’ đại diện 101 quốc gia trên thế giới. Tuy vậy, đến khi bị hỏi vặn thì Trần Trọng Toàn, Phó chủ nhiệm “Uỷ Ban Nhà Nước Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài” phải trớ đi, trả lời lập lờ là chỉ có một số người được gửi về từ một số cái gọi là “Hội Việt kiều” hoặc “Chi hội Việt kiều” từ một số quốc gia trên thế giới và một số các nhân, phe nhóm đã từng đóng góp với nhà nước CSVN qua hình thức buôn bán, từ thiện cứu trợ thiên tai, cứu đói giảm nghèo, cứu trợ y tế và giúp các trẻ em thất học, bại liệt,v,v....

Để đi sâu vào vấn đề, có lẽ ai cũng thấy cái mà CSVN gọi là “Đại biểu” hoàn toàn là một điều “lập lờ đánh lận con đen” nhằm lừa bịp người dân trong nước nói riêng và quốc tế nói chung. Nếu ai quan tâm theo dõi tất sẽ thấy, gọi là “Đại biểu” cộng đồng người Việt tại hải ngoại mà không hề có một tên tuổi nào gọi là có tiếng tăm, uy tín đã sinh hoạt trong các hội đoàn, đoàn thể hay trong các tổ chức cộng đồng tại hải ngoại. Ngược lại chỉ thấy một đám người lạ hoắc chưa từng biết mặt, nghe tên. Còn lại cái mà CSVN gọi là hội hay chi hội “Việt kiều” tại hải ngoại này cũng chưa từng nhắc qua tại những nới đông đảo người Việt cư ngụ như Mỹ, Úc, Canada,v,v,.. Như vậy, phải chăng đây là những tổ chức ma, hay là những nhóm bí mật như “hội kín” thời pháp thuộc ở mội nơi hang hốc nào đó.

Cũng trong đoạn phỏng vấn của RFA, Trần Trọng Toàn, Phó chủ nhiệm Uỷ Ban Nhà Nước Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài cho biết
"Vì tôi là người tiếp xúc với anh em trí thức Việt kiều ở các nước mà tôi đi thăm thì mọi người cũng đều trăn trở là làm thế nào đóng góp phần mình để đóng góp cho nền giáo dục Việt Nam...“.
Với câu nói này cuả Trần Trọng Toàn có thể đúng với sự thật, nhưng có lẽ không đúng theo nghĩa của ông là họ trăn trở để làm thế nào đóng góp cho chế độ CSVN bằng cách mang công sức và của cải về xây dựng đất nước khi chế độ thối nát vong nô CSVN còn tồn tại. Ngược lại, điều mà trí thức tại hải ngoại lúc nào cũng luôn trăn trở là làm thế nào có thể tận diệt tất cả những gì đang đi ngược với nhân bản, tượng trưng qua chế độ CSVN. Cái quan trọng của trí thức hải ngoại là muốn dân tộc mình được đầy đủ cái quyền làm người như tất cả mọi người trên trế giới, họ không muốn và rất đau lòng khi nhìn dân tộc mình bị khủng bố, bóc lột và nhục nhã như hiện tại dưới bàn tay CSVN. Họ cũng muốn đất nước được thăng hoa và lãnh thổ, lãnh hải được toàn vẹn, không phải chịu uất nhục, cúi đầu đem giang sơn dâng hiến cho ngoại bang. Như vậy, những người Trần Trọng Toàn đã tiếp xúc chắc chắn không phải là những trí thức chân chính trong cộng đồng người Việt tỵ nạn tải hải ngoại mà chỉ là những tên đã khánh kiệt lương tri, thối rữa tâm hồn chỉ vì tham danh, hám lợi, bám theo cái cái bánh vẽ CSVN đưa ra. Chỉ có những loại người này mới không nhìn thấy và cảm nhận được cái đau của dân và cái nhục của nước đang hiện diện trên khắp nẻo đường quê hưong.

Nói về mục đích và nột dung “Đại Hội Việt Kiều”, Trần Trọng Toàn cho biết
“Đây là một diễn đàn mở, vì thế những vấn đề nêu ra trong hội nghị cũng là những vấn đề mở. Diễn đàn mở này sẽ rất hay vì từ trước Việt Nam nhiều lần tổ chức các buổi họp mặt dành cho Việt kiều song không hiệu quả lắm, vì thế hội nghị lần này là dịp để lắng nghe vì muốn thay đổi hay cải tiến thì cần lắng nghe ý kiến của Việt kiều”. 
Chẳng những thế, ông Toàn còn cho biết, đảng và nhà nước sẵn sàng nghe ý kiến đóng góp những vấn đề xưa nay được cho là “nhạy cảm” như hiện tượng Boxite ở Tây Nguyên, vấn đề lãnh hải và lãnh thổ bao gồm chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trương Sa nữa. Từ điểm này, đại đa số dư luận cho rằng, nếu nói như ông Toàn thì chẳng hoá ra đảng và nhà nước CSVN chỉ thích nghe ý kiến của “Việt kiều” thôi sao? Còn ý kiến của những trí thức trong nước để đi đâu? Tại sao những trí thức trong nước như Ls Lê Chí Quang, Bs Phạm Hồng Sơn, Bs Nguyễn Đan Quế, Ls Lê Công Định, Ls Lê Thị Công Nhân và rất nhiều người khác đang bị cầm tù cũng chỉ vì đóng góp ý kiến trước cái khốn cùng của dân tộc và uất nhục cuả quê hương. Do đó, dư luận cũng cho rằng tất cả những gì ông Toàn nói chỉ là trò bịp, con số trên dưới một ngàn người mò về cũng là người của đảng CSVN, về để tụ họp “áo thụng vái nhau” diễn tuồng, phân phát “huân chương” bịp thiên hạ cho vui, còn lại thực tế “Mười voi vẫn không dược một bát nước xáo”.

Nhận định về “Đại Hội”, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hưng hiện đang sống tại Thụy Sĩ và cũng là người đã về Việt Nam nhiều lần cho biết, ông cũng chẳng hứng thú gì với cái trò hề này, ông nói
"Tôi cũng trong số người được mời nhưng nói thật tôi rất phân vân bởi cái thời điểm bây giờ có những sự cố như thái độ của Việt Nam đối với trí thức qua nghị định 97 về vấn đề phản biện đưa tới việc các nhà trí thức hàng đầu của Viện IDS phải giải thể, hay là báo Tia Sáng, một cái nhìn của trí thức, không còn truy cập được nữa. Tôi e rằng rằng đây là khoảng thời gian mà không gây được sự phấn khởi để cho người trí thức tham gia đông đủ."...
Cũng trong vấn đề này đa số nhận định, CSVN đã lầm lẫn hay cố tình lầm lẫn một điều là khi thấy bất cứ ai đi ra đi vào Việt Nam nhiều lần là họ cho đó là những thành phần ủng hộ đảng và yêu đảng.Và đây cũng là thái độ “thấy sang bắt quàng làm họ” một cách nhập nhàng đã từng lừa bịp thiên hạ từ xưa đến nay của CSVN. Qua sự nhận định của Ts Hưng, để có thể thấy được một trí trức thực sự không như CSVN nghĩ, để vô tỉnh hay cố ý trở thành con rối cho đảng và nhà nước CSVN thao túng.

Trên thực tế, trong một chế độ độc tài toàn trị như CSVN, thì chắc chắn không bao giờ có được một sự lắng nghe trung thực, thật thà để xây dựng đất nước. Nếu CSVN biết lắng nghe tất cả những trí thức trong nước đã không bị trù dập, tù tội, ngược lại họ phải được tuyên dương. Hơn nữa, nếu CSVN biết lắng nghe thì cái quyền tự do ngôn luận và tự do thông tin đã được tôn trọng và làm gì có cái cảnh hàng loạt trí thức bị khủng bố trùng dân, bắt bớ , tù tội như Ls Lê Chí Quang, Bs Pham hồng Sơm, Bs Nguyễn Đan Quế, Ls Lê Thị Công Nhân , Ls sư Lê Công Định,v,v.... Đây là một thực tế phũ phàng mà ai cũng thấy, nhưng rất tiếc, cái bả lợi danh đã làm cho một số người phải bóp nất lương tri để cong lưng, uốn lưỡi trở thành con rối, nhảy muá trong vở tuồng lừa bịp “Đại Hội Việt Kiều” của CSVN bày ra như đã thấy.

Tóm lại, CSVN là một loại vi khuẩn ung thư mãn tính, không bao giờ và cũng không có một loại thần dược nào có thể chữa trị, ngoại trừ khi bị đốt trành tro bụi. Do đó, tất cả những luận điệu giác ngộ, chấp nhận lắng nghe ý kiến “Việt Kiều” chỉ là một trò tung hứng rẻ tiền nhằm nhiễu loạn nhân tâm, tạo ra một sự phân hoá hầu triệt tiêu ngọn lửa đấu tranh trong cộng đồng người Việt tại hải ngoại mà thôi. Đây cũng chỉ là một chiến thuật như những chiến thuật trước đây qua nghị quyết 114 năm 2001 và nghị quyết 36 năm 2003, nhưng kết quả cho thấy cũng chẳng có gì khà quan ngoài nhiễu loạn được một khoảng thời gian ngắn và gây ra đưọc một số phân hoá nhỏ.

Để bảo đảm hơn, lần này CSVN chỉ mời một con số rất khiêm nhường trên dưới 1000, mặc dù khả năng CSVN có thể mời con số gấp năm hay mười lần như thế. Tuy nhiên, theo đa số nhận định, CSVN chỉ có thể thành công trên mặt hình thức co số những “con rối” về tham dự, nhưng cũng sẽ chẳng đi đến một kết quả nào với nội dung đã đưa ra.

• Phạm Thanh Phương