"...trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng..."

Phạm Thanh Phương (Úc Châu)

Lịch sử Việt Nam là một tranh đấu sử, với một ngàn năm bị đô hộ bởi giặïc Tầu, một trăm năm Pháp thuộc và hơn nửa thế kỷ chống CS. Hình ảnh người Phụ Nữ Viêt Nam luôn luôn chiếm một vị thế ưu việt của từng góc cạnh, từng giai đoạn trên dòng lịch sử. Trong bất cứ giai đoạn thăng trầm nào của đất nước, người Phụ Nữ Việt Nam vẫn phát huy được dầy đủ ý nghĩa chữ Tòng trong văn hoá truyền thống. “Tại gia tòng Phụ”, khi xuất giá thì tòng Phu trong quan niệm “Nhất tâm, lưỡng thể”. Họ luôn luôn phải bập bềnh men theo dòng lịch sử, tận hiến cuộc đời, chia sẻ cùng chồng, con tất cả những trăn trở, ưu tư của cuộc sống và giúp chồng, con được làm tròn bổn phận với quê hương, dân tộc....

Nghìn xưa phận liễu một chữ tòng
Thăng trầm vinh nhục với núi sông
Cuộc sống chông gai hay nhung lụa
Em luôn chia sẻ hết cùng chồng

Sau khi đất nước bị chia đôi (1954), người phụ nữ miền Bắc phải ép mình trong muôn ngàn gian khổ, nhục nhã dưới bạo quyền CS qua hàng loạt những chiêu bài “Đảm đang, sẵn sàng ‘ để phục vụ Đảng trong mọi lãnh vực, mọi hình thức kể cả những lãnh vực bẩn thỉu nhất và ô nhục nhất của nhân loại... Trong khi đó, người Phụ Nữ miền Nam tuy rất được trân trọng, nhưng cũng không kém nặng nề khó khăn... Ngoài thiên chức làm mẹ, họ phải kiêm nhiệm luôn vai trò người cha và chung thủy với bổn phận làm vợ, hy sinh hạnh phúc cá nhân để chồng, con được an tâm làm tròn nghĩa vụ bảo Quốc, an dân của một thời binh lửa đưa đến từ bản chất vong nô đầy thú tính của CSVN...

Vào ngày binh lửa khắp non sông
Em ngăn dòng lệ tiễn chân chồng
Chăm sóc con thơ cho thành đạt
Muôn đời câu tiết hạnh khả phong

Xuôi theo cơn ngặt nghèo vận nước (1975), người Phụ Nữ miền Nam Việt Nam lại được quăng vào một khoảng không, một hoàn cảnh ngỡ ngàng. Đất nước đã im tiếng súng, nhưng những nụ cười đoàn tụ chưa kịp nở thì dòng lệ ly cách lại trào tuôn, cuộc đời đau khổ lại càng đau khổ hơn, lớp lớp chất chồng như những đợt sóng oan khiên phủ lên đời người. Lúc ấy, người Phụ Nữ miềm Nam Việt nam phải đối điện với tất cả những thủ đoạn lưu manh, lọc lừa và bạo lực từ những con thú đội lốt người. Họ phải vận dụng tất cả khả năng tồn đọng, luồn lọt để sống còn, đợi chờ và ngược xuôi bương trải nuôi con. Chắt chiu từng đồng, trèo đèo vượt suối thăm chồng, thăm con nơi rừng thiêng nước độc với mỹ danh “cải tạo”... Để rồi, người nào may mắn có được giây phút đoàn tụ thì vẫn tiếp tục đắng cay, tủi hờn theo vận nước...

Ngày nay, tuy mang tiếng là đất nước thanh bình, nhưng dưới chế độ phi nhân CSVN, người phụ nữ đã trở thành “Con gà đẻ trứng vàng” để chế độ khai thác... CSVN cố tạo ra những đói rách, tan hoang, trực tiếp hay gián tiếp ép phụ nữ vào con đường băng hoại một cách khéo léo... CSVN cố gắng tìm mọi cách đổ lỗi do hoàn cảnh đẩy đưa cuả một thời hậu chiến. Nhưng nếu đi sâu vào thực chất, có lẽ không ai có thể phủ nhận CSVN mới chính là những tên đầu nậu của thời cuộc, “đảng” đã tạo ra hoàn cảnh khó khăn, để có cơ hội bóc lột trên những băng hoại đau khổ của người Phụ Nữ Việt Nam một rất tự nhiên... Dưới một xã hội bát nháo, dân tình đói rách, giáo dục suy đồi, đạo đức băng hoại, biết bao nhiêu trò điếm nhục xuất hiện đã được sự bảo kê của mọi tầng lớp cán bộ tuỳ theo lãnh vực, mà nạn nhân là những phụ nữ ngây thơ chân yếu, tay mềm. Với chiêu bài xuất cảng lao động sang các nước láng giềng, trong chính sách đem con bỏ chợ, người Phụ Nữ Việt Nam đã trở thành một vật tiêu khiển, mặc sức cho thiên hạ giày xéo, bóc lột, ngược đãi...Thậm chí đến những em bé tuổi mới lên 5, 6, cũng không thoát khỏi nanh vuốt của đảng với chiến dịch “xuất cảng” gián tiếp hàng loạt sang Căm Bốt và các nước lân bang với “chức năng” nô lệ tình dục. Sự kiện này đã kéo dài qua nhiều thập niên và tiếp tục cho đến hôm nay để nhân loại phải nhỏ những giọt lệ xót xa trăn trở.

Ngoài ra, còn biết bao nhiêu cảnh đời đen tối trong chiến dịch lấy chồng Đại Hàn, Trung Cộng, Đài Loan,v,v,... Tất cả đều biết, sau khi theo chồng ra xứ ngoài, họ có thể trở thành những kẻ ở đợ không công, hay bị bán vào lầu xanh, hoặc trở thành nô lệ tình dục cho một nhóm người nào đó. Tuy vậy, với cuộc sống quá nghèo khổ, bữa đói bữa no, cha già, mẹ yếu, nhà dột, cột xiêu, và cũng nhiều trường hợp vì chữ hiếu, chỉ mong kiếm chút đỉnh để lại cho gia đình hy vọng có thể sống còn đi nốt cuộc đời còn lại để vo tròn đưọc cái nghĩa thống khổ, thương đau. Nên cuối cùng chẳng còn cách nào hơn “Cũng liều nhắm mắt đưa chân. Để xem con tạo xoay vần đến đâu”...

Trong xã hội, tham nhũng, bóc lột, sinh ra đói rách đi đến băng hoại, đám lãnh đạo hợp tác cùng đám “Đồng chí ngoại vi” xã hội đen đưa đẩy và dụ dỗ phụ nữ vào con đường nhơ nhớp, hết “phục vụ” khách ngoại quốc qua chiêu bài “hữu nghị”, lại đến các tụ điểm bia ôm, ngủ trưa ôm và tệ hơn nữa là rải rác đón khách trên các công viên, đầu đường xó chợ. Cuộc sống thiếu thốn cả lãnh vực vệ sinh, ø để rồi đến khi bệnh hoạn lại không thuốc chữa..ï. Bọn Cán Bộ Đảng chia nhau vơ vét, bóc lột, rồi lại dùng những đồng tiền hôi tanh ấy, quay lại dầy xéo thân thể như cô gái đáng con, cháu, mình mà lấy làm đắc chí với “Đỉnh cao trí tuệ”...

Đây chính là “Tư Tưởng Hồ Chí Minh” để lại, mà lũ hậu duệ đang ra sức học tập... Đó chính là mô hình “Hợp tác xã”... Giang Sơn, đất nước cũng được coi như “Hợp tác xã” ai muốn khai thác hay buôn bán tùy ý, miễn là đảng có tiền bỏ túi. Bằng chứng cho thấy một phần đất, biển đã bị mất một cách tức tưởi đếm nhục, một số tỉnh phía Bắc cho Trung cộng mướn dài hạn, như vậy thử hỏi nhân phẩm phụ nữ có đáng gì để CSVN quan tâm...

Tuy hoàn cảnh thực tại đã quá rõ rằng, nhưng hàng năm CSVN vẫn luôn trơ trẽn tổ chức ngày Phụ Nữ 8-3 một cách rầm rộ, đề cao Phụ Nữ theo cái kiểu “Xúi trẻ ăn cứt gà” của Hồ Chí Minh để lại, nghĩa là giải phóng phụ nữ ra khỏi hình ảnh kiều diễm truyền thống văn hóa dân tộc, thay thế vào đấy một hình ảnh “Hợp tác xã” bầy hầy, nhơ nhớp và được che đậy bằng bốn chữ “Duyên Dáng Việt Nam” để tiếp tục bóc lột trên xương máu của họ như tên ma cô Nguyễn Minh Triết đã từng tuyên bố mời gọi đầu tư nước ngoài bằng chiêu bài “Đất nước Việt Nam chúng tôi có rất nhiếu gái trẻ đẹp”... Như vậy phải chăng chế độ CSVN chỉ là một “Ổ Chứa Đại Đồng” và Trung Ương đảng CSVN là những tên ma cô thuần thành đầy đủ chức năng nghiệp vụ. Ôi! một đất nước oai hùng bất khuất với hình ảnh của người phụ nữ yêu kiều, duyên dáng đáng trân qúy của dòng lịch sử nay còn đâu...

Từ độ xuân về cơn quốc biến
Miền Nam tức tưởi, bóng hư vô
Bầu trời xám dục, dòng huyết lệ
Uất nhục “văn minh” kiểu lão “Hồ”

Hôm nay, nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc Tế Phụ Nữ (8-3), viết những lời này thay cho những tiếng thét căm hờn quyện trong những giọt nước mắt đầy tủi nhục, để mong có thể chia sẻ với tất cả những người chị, người em Việt Nam cuả chúng ta một phần nào những thống khổ, thương đau, uất nhục trong cái vũng lấy tăm tối của nhân loại, và xót xa cho cả dân tộc đang thoi thóp trên mảnh Quê Hương đã qúa thừa khốn khổ, đau thương...

Sau cùng, kính nguyện anh linh tổ tiên cùng hồn thiêng Sông Núi, xin soi sáng cho tất cả những tâm hồn bệnh hoạn đang kẻ lầm đường, chệch hướng, biết thức tỉnh, quay về với chính nghĩa dân tộc trong công cuộc đấu tranh chung, đòi tự do, dân chủ, để người dân Việt có được những ngày an vui, thảnh thơi và nhân phẩm Phụ Nữ Việt Nam được tiếp tục thăng hoa và trân qúy như truyền thống ngày nào trên dòng lịch sử Việt Nam

* Phạm Thanh Phương (Úc Châu)


Phạm Thanh Phương (Úc Châu)

Trong thời gian gần  đây, sự kiện CSVN ký hợp đồng để  Đài Loan, Hồng Kông và Trung cộng thuê 300 ngàn Hecta thuộc10 tỉnh phiá Bắc đã tạo lên một làn sóng dư luận khá xôn xao trong và ngoài nước. Trong đó, hầu như đa số tập trung vào sự lên tiếng cuả hai nhân vật Nguyễn Trọng Vĩnh và Đồng Sĩ Nguyên, những người được mệnh danh là “Nhà Cách mạng lão thành”, và từng là Ủy viên Trung ương Đảng CSVN. Nói về sự lên tiếng của hai nhân vật “Cách mạng lão thành” này cũng có hai chiều hướng nhận định khác nhau, một số cho đây là một màn kịch tung hứng hầu giảm bới sự phẫn nộ trong dư luận của toàn dân. Ngược lại, số khác cho rằng đây là những nhân vật yêu nước, tiếng nói của họ là tiếng nói của nhịp tim, đang thổn thức thở dài theo vận nước nổi trôi bởi sự vong nô hèn nhược từ bè lũ lãnh đạo CSVN.  Trải qua hơn 30 năm, kể từ ngày CSVN “thống nhất” lãnh thổ 30-4-1975, cả một dân tộc đã “được” vùi sâu trong vũng lầy nhơ nhớp của nhân loại trong màn đêm tam tối nhẫn nhục. Tuy nhiên, trong khoảng một thập niên gần đây, những tiếng nói phản kháng đã xuất hiện từ một số nhà “Cách mạng lão thành” như Trần Độ, Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, và đến nay là Nguyễn Trọng Vĩnh và Đồng Sĩ Nguyên. Mỗi lần họ lên tiếng là một lần dư luận ngạc nhiên, ồn ào, trong đó có cả những ca tụng, tâng bốc, thậm chí tôn vinh những nhân vật này như những tâm hồn yêu nước đặc biệt, rất tha thiết với quê hương, dân tộc. Khi một người trong họ qua đời, cũng có kẻ còn làm lễ truy điệu họ như những anh hùng vị quốc vong thân mới là điều khó nghĩ. Nếu những sự kiện này được đảng và nhà nước CSVN thực hiện thì cũng chẳng có gì đáng nói, nhưng rất tiếc trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cũng có một số người thổi phồng một cách rất ồn ào mới là một điều cần suy nghĩ. Một số câu hỏi được đặt ra là những nhân vật này có thực sự yêu nước thương dân không, hay họ chỉ là những diễn viên của một vở tuồng tung hứng do CSVN đạo diễn, hầu có thể chứng tỏ CSVN cũng có dân chủ, có tự do ngôn luận. Đảng và nhà nước tuy độc tài, tàn ác, dã man, nhưng vẫn sẵn sàng lắng nghe và tôn trọng những tiếng nói dị biệt, những “bất đồng chính kiến” hay “phản hồi’ về những hành xử của CSVN trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại ???  Một vấn đề khác được đại đa số nêu ra là những nhân vật này lên tiếng có đúng lúc để thay đổi hoàn cảnh, hay chỉ là một sự vuốt đuôi khi sự kiện đã rơi trong hoàn cảnh “Ván đã đóng thuyền” ???... Nếu nói rằng họ là những người biết yêu nước thương dân, thì tại sao họ lại không thương lúc đang đương quyền tại vị mà phải đợi đến khi về hưu, không còn quyền lực mới lên tiếng, để rồi kết qủa những sự lên tiếng ấy cũng chỉ nằm trong cái cảnh “Đấm bùn sang ao” chẳng có chút ảnh hưởng nào đến thời cuộc hay sự việc. Những việc họ nói không phải là những gì người dân không biết, người dân biết rất rõ, nhưng không dám lên tiếng bởi những tàn bạo, dã man mà CSVN luôn đe dọa mạng sống của họ. 

Nhìn vào sự kiện CSVN cho Đài Loan, Hồng Kông và Trung cộng thuê 300 ngàn Hecta đất, tất nhiên có thể thấy được một sự đồng bộ, tựa như những nhạc công đang hoà tấu một nhạc khúc rất nhịp nhàng, lên xuống theo chiếc đũa của người nhạc trưởng. Đa số lý luận rằng, việc cho thuê 300 ngàn Hecta đất không phải là một chuyện nhỏ, nó không phải một sự lạm quyền, cướp một vài mảnh đất của người dân làm của riêng, để cho rằng do địa phương làm bậy. Ngược lại, đây là vấn đề mang tính đại sự, không thể nói rằng trung ương không biết, mà chắc chắn là do chính sách từ trung ương, hay cũng có thể đảng và nhà nước đang đáp ứng sự đòi hỏi từ quan thầy Trung cộng trong chiến thuật xâm lăng hợp pháp và hợp lý qua chiêu bài “hữu nghị” với “quyền lợi song phương” nào đó. Như vậy, đã gọi là những nhà “Cách mạng lão thành” quan tâm, tha thiết đến đất nước tất nhiên họ phải biết sớm hơn dân, biết để lên tiếng ngăn chặn ngay từ khởi điểm vì họ là những nhà “Cách mạng lão thành”, dù về hưu nhưng bạn bè, tay chân vẫn còn trong Trung ương đảng và các nơi trong guồng máy cai trị. Nhưng rất tiếc hai nhân vật Nguyễn Trọng Vĩnh và Đồng Sĩ Nguyên cũng chỉ lên tiếng khi “gạo đã nấu thành cơm”“ván đã đóng thành thuyền”. Tuy vậy, sự lên tiếng này cũng được Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng CSVN lắng nghe và thi hành với công văn số 405/TTg-KTN, chỉ đạo “không cấp giấy giấy phép đầu tư và không ký tiếp hợp đồng cho thuê đất trong một thời gian tới”. Câu văn “một thời gian tới” là thời gian nào không ai có thể xác định, và như thế thì 300 ngàn Hecta đất kia nằm trong một sự đã rồi. Hơn nữa, từ nay đến “một thời gian tới” kia sẽ còn cho muớn thêm bao nhiêu đất nữa thì cũng không ai biết. Như vậy, phải chăng sự lên tiếng và bản công văn của Nguyễn Tấn Dũng chỉ là một trò tung hứng với hai mục đích. 
Thứ nhất, sự tung hứng nhằm chứng minh CSVN dù là một đảng vong nô, hèn nhược bán nước, hại dân, cướp của giết người như một loài thú. Tuy nhiên, vẫn có những tâm hồn “yêu nước thương dân”, vừa giết dân vừa thương dân, vừ bán nước vừa yêu nước. Nhưng rất tiếc, giết dân rồi mới thương dân, bán nưóc rồi mới bày tỏ lòng yêu nước, như vậy đây có phải đây là chiến thuật “Nước vỏ lựu, máu mào gà” mà Tú bà đã dạy cô Kiều của cụ Nguyễn Du xưa kia hay không? Câu trả lời xin để độc giả suy xét tìm hiểu.  
Thứ hai, sự kiện tung hứng này chứng tỏ dưới chế độ độc tài toàn trị vong nô CSVN vẫn tôn trọng tự  do ngôn luận và ý thức. Bằng chứng khi hai nhân vật “lão thành cách mạng” vừa lên tiếng, lập tức Thủ tướng ra công văn đình chỉ ngay. Trường hợp này chưa từng xẩy ra với bất cứ ai, dù đó là những đóng góp rất chính đáng như “Viện Nghiên Cứu Khoa Học”. Ngược lại còn ra nghị định 79 bịt miệng họ, để họ thất vọng phải tự  ý giải thể. Một điều khó hiểu là tại sao biết bao nhiêu người cũng tỏ lòng yêu nước, lên tiếng về sự tồn vong của đất nước giống như hai “nhà cách mạng lão thành” Nguyễn Trọng Vĩnh và Đồng Sĩ Nguyên thì lại họ được hồi đáp bằng nhà tù với những bản án mơ hồ cưỡng từ đoạt lý như trường hợp của Ls Lê Công Định, Thầy giáo Vũ Hùng, Blogger Điếu Cày, cô Phạm Thanh Nghiên,v,v... Như thế, đây có phải là một vở tuồng tung hứng hay không, trong mỗi người Việt Nam chúng ta đã có câu trả lời. 
Nếu nói rằng không phải là một vở tuồng tung hứng, thì chẳng lẽ chỉ có những kẻ đã từng “dầy công hãn mã” trong “sự nghiệp” bán nước hại dân, hay cướp của giết người của CSVN mới có quyền yêu nước, thương dân hay sao??? Ngược lại, nếu cho rằng đây là một vở tuồng tung hứng thì thiết nghĩ người Việt tỵ nạn CS cũng không nên ca tụng, tung hô, mà chỉ nên coi đó là một hiện tượng, một bản tin để suy gẫm.  
Tóm lại, trong hoàn cảnh đấu tranh của toàn dân hiện nay, trong cái thế vàng thau lẫn lộn, tất cả nên bình tĩnh suy xét. Hiện tượng chỉ là hiện tượng, hiện tượng có thể thể hiện bản chất và cũng có thể chỉ dùng che đậy bản chất trong một mục đích nào đó, Do đó, sự cẩn trọng không có nghĩa là đánh mất niềm tin, mà ngược lại dùng củng cố niềm tin, hầu có thể tránh được những thái quá và bất cập với bất cứ hiện tượng nào và trong bất cứ tình huống nào. Đồng thời có thể tránh được những lực cản hay sự tác hại đến công cuộc đấu tranh chung đi tìm dân chủ, tự do cho quê hương. 



  • Phạm Thanh Phương (Úc Châu).



  • -Phạm thanh Phương-


    Theo tin RFA, ngày 23-2-2010 vừa qua, trong một cuộc gặp gỡ báo chí đầu năm, Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng CSVN tuyên bố "báo chí cần chủ động thông tin bảo vệ chủ quyền". Với câu nói này, một số người cho rằng đây là một hiện tượng bất thường, nó gần như một thông điệp gởi đến báo giới, báo hiệu một sự cởi trói, thành lập một hệ thống thông tin tự do, nhằm nâng cao dân trí, phát triển con người và đất nước. Đồng thời đây cũng là một chỉ dấu chứng tỏ tập đoàn CSVN có chiều hướng giác ngộ đối với quốc gia, hoà giải dân tộc hầu có thể “canh tân” và phát triển một Việt Nam hùng mạnh trong xu thế tiến bộ toàn cầu. Ngược lại đại đa số lại cho rằng, câu nói của Nguyễn tấn Dũng chỉ là một trò bịp quá cũ, nó chẳng đáng gì để quan tâm “Hồ hởi, phấn khởi” luận bàn.

    Nếu nhìn kỹ vào hoàn cảnh đất nước, những vấn đề vấn đề liên quan đến chủ quyền đã quá sáng tỏ, không còn gì để báo chí “cần chủ động thông tin”. Và nếu có những điều mới mẻ liên quan đến chủ quyền đất nước mà người dân cần biết sớm, thì một câu hỏi nên đặt ra ở đây là “biết để làn gì”. Nam Quan- Bản Giốc- Hoàng Sa- Trường Sa được coi như đã yên vị trong tay Trung cộng, biển đông cũng đã xong. Hiên tại, chắc chắn Trung cộng sẽ không cần dùng đến vũ lực đánh chiếm bất cứ điều gì trên đất nước Việt Nam, họ đã có cả một tập đoàn lãnh đạo CSVN làm tay sai, nên họ dùng một phương pháp khác tinh vi hơn, tế nhị hơn và hợp lý hơn. Chính sách này được gọi là “Xâm Lăng Hữu Nghị”. Bằng chứng cho thấy trong những ngày đầu xuân Canh Dần, hiện tượng cho Trung cộng mướn đất dài hạn đã được thực hiện tại một số tỉnh miền Bắc. Một khi đã có hợp đồng thuê mướn, tất nhiên những nơi đó sẽ trở thành những vùng tự trị của Trung cộng mang tính “bất khả xâm phạm” đối với người Việt Nam. Từ đó, một cuộc xâm lăng rất nhẹ nhàng và hợp pháp trên một số bình diện như kinh tế, văn hoá, chính trị sẽ phát triển nhẹ nhàng như một vết dầu loang, để rồi đất nước Viện Nam từ từ bị đồng hoá lúc nào không ai biết. Đây mới chính là dã tâm thâm độc nhất của Trung cộng và CSVN. Vì thế đại đa số đu luận đã cho rằng lời tuyên bố của Nguyễn Tấn Dũng cũng chỉ là một sự bịp bợm, sự bịp bợm này cũng dùng làm động lực tạo cơ hội cho những tên văn nô, ký nô và bọn việt gian, nằm vùng tại hải ngoại thổi phồng, tạo trận hoả mù, ru ngủ ý thức đấu tranh đòi quyền tự quyết của dân tộc.

    Nếu cho rằng câu tuyên bố "báo chí cần chủ động thông tin bảo vệ chủ quyền" là một sự giác ngộ cuả CSVN, thì hãy nhìn vào bối cảnh hiện tại để thấy được đã có biết bao nhiêu “nhà đấu tranh dân chủ” phải ngồi tù cũng chỉ vì đưa tin, hay bộc lộ sự uất nhục trong việc bảo vệ chủ quyền đất nước. Bằng chứng cho thấy ông Nguyễn Trung Dân, Tổng Biên Tập báo Du Lịch đã bị rút thẻ nhà báo và kéo theo mất chục nhân viên thất nghiệp cũng chỉ vì thông tin đúng lúc hiện tượng chủ quyền quốc gia bi Trung cộng xâm phạm, cước bóc. Như vậy, lời nói của Nguyễn Tấn Dũng có gì đáng tin tưởng “ hồ hởi, phấn khởi” luận bàn.

    Riêng hoạt động báo chí trong nước, có lẽ không ai có thể phủ nhận tất cả chỉ là cộng cụ tuyên truyền của đảng, họ chỉ được đưa tin theo quy định, cho dù những nguồn tin ấy có trái với lương tâm chức nghiệp. Báo giới muốn sống còn, đương nhiên họ phải gói kín lương tri, tự biến mình thành loại văn nô, ký nô thuần thành. Ngược lại, nếu không cẩn thận, chẳng may chệch ý đảng một tí, thì chắc chắn sẽ được ngồi tù hoặc giải nghệ, mặc dù sự chệch ý ấy chỉ là một phần rất nhỏ của sự thật, nhất là đối với những vấn đề được gọi là b như Hoàng Sa, Trường Sa, Trung cộng khoanh vùng biển đông, ngăn cấm ngư dân Việt Nam đánh cá ngay trên chính lãnh hải của Việt Nam.

    Nếu nói rằng CSVN đã giác ngộ, cần nới rộng tự do báo chí, khuyến khích "báo chí cần chủ động thông tin bảo vệ chủ quyền", thử hỏi những người đang “thọ án” trong tù như cô Phạm Thanh Nghiêm, Thầy giáo Vũ Hùng và còn rất nhiều Blogger khác thì tính sao đây, họ có tội gì? Hay họ đã thực thi lời kêu gọi của Nguyễn Tấn Dũng, thực hiện sự "chủ động thông tin bảo vệ chủ quyền". Như vậy, lời nói của Nguyễn Tấn Dũng mang ý nghĩa gì ? Nó có phải là một sự quan tâm đến sự tồn vong của đất nước hay là một lời cảnh cáo, răn đe báo chí cần chủ động “thông tin đúng quy định”, đừng để đảng và nhà nước phải nhắc nhở, hay dùng biện pháp nặng nề... Như vậy, một khi báo chí được quyền "chủ động thông tin bảo vệ chủ quyền" đến người dân biết, nhưng “biết để làm gi?” hay vẫn tiếp tục bị bịt miệng, trói não, ngăn cấm tư duy như đã và đang bị từ xưa đến nay.

    Trước bối cảnh ngặt nghèo của tổ quốc do sự vong nô, hèn nhược của CSVN tạo ra, vấn đề then chốt không phải “báo chí cần chủ động thông tin bảo vệ chủ quyền" đến người dân, mà đưa tin đến cho người dân “biết để làm gì” mới là điều quan trọng. Một khi dân biết, họ có quyền hành động phản kháng, chống đối không, hay biết chỉ để ngậm đắng nuốt cay trong uất nhục, và tập đoàn lãnh đạo CSVN vẫn tiếp tục chạy sang Bắc Kinh tung hô “tinh thần bốn tốt và mưới sáu chữ vàng” với quan thầy Trung cộng một cách kính cẩn trung thành.

    Riêng lãnh vực báo chí tại Việt Nam, nhà văn quốc nội Trần Mạnh Hảo nhận định:

    “Ngay trên các blog trong nước thì người ta cũng đã có những bài viết cấm không cho người dân phát biểu ý kiến cũng như gần 700 tờ báo không được phát biểu ý kiến, sơ xẩy một tí là vi phạm pháp luật. Đấy là một cách họ cấm đoán không cho tự do báo chí, không cho ai phê bình mình. Độc quyền hành động mà không có ai phê phán thì làm sao tiến bộ được?”.
    Cũng trong vấn đề này nhà văn Trần Mạnh Hảo nhận định thêm

    “Kiểm soát báo chí chưa đủ, nhà nước còn vươn tay đến những trang blog có các bài viết được xem là nhạy cảm. Việc cấm đoán các trang blog này đã dấy lên làn sóng phản đối tuy âm thầm nhưng rất rộng rãi. Người viết blog cảm thấy bị xâm phạm, mặc dù họ chỉ viết những điều rất riêng tư và không dính dáng gì đến sự lo ngại của nhà nước”.
    Nhìn lại chỉ trong thời gian một năm qua, liên quan đến thông tin về tệ nạn tham nhũng và chủ quyền đất nước, tất cả cũng đã có sáu cơ quan báo chí bị cảnh cáo, 252 trường hợp bị khiển trách, 15 nhà báo bị thu thẻ hành nghề, trong đó có 2 Tổng Biên tập, 4 phó Tổng Biên tập, 6 nhà báo bị khởi tố, 2 nhà báo vào tù. Như vậy không hiểu lời nói của Nguyễn tấn Dũng có thể tin được là một thiện chí hay không? Có lẽ trong mỗi chúng ta, ai cũng đã có câu trả lời chinh xác.

    Cũng trong vấn đề báo chí, hôm thừ Ba 16-2-2009, Ủy Ban Bảo Vệ Ký Giả, trụ sở tại New York, Hoa Kỳ, đã công bố bản phúc trình hàng năm tựa đề "Những Cuộc Tấn Công Báo Chí Năm 2009", nội dung nói về tình hình đàn áp báo chí trên khắp thế giới trong đó có Việt Nam. Riêng tại Việt Nam, Ủy Ban Bảo Vệ Ký Giả cũng cho biết rất nhiều phóng viên và bloggers phổ biến quan điểm của họ, nhất là những quan điểm bày tỏ lòng yêu nước và sự quan ngại đến chủ quyền của Việt Nam đang bị xâm lăng do sự hèn nhược của tập đoàn lãnh đạo CSVN, tất cả đều đã bị sách nhiễu, thẩm vấn, bỏ tù. Điển hình mới nhất là truờng hợp cô Phạm Thanh Nghiêm với bản án 4 năm tù giam và 3 năm quản chế, mà tất cả thế giới đều ngạc nhiên xúc động.

    Ngoài ra một số trường hợp bị khống chế, khủng bố, bắt bớ khác cũng không ngoài những đau xót khi nhìn thấy viễn cảnh đất nước đang bị mất dần trong tay ngoại bang như trường hợp nhà báo Trần Thanh Hiếu, Blogger “Người Buôn Gió”; Phóng viên Phạm Đoan Trang VietNamnet; Blogger "Mẹ Nấm" Nguyễn Ngọc Như Quỳnh; Blogger Bút Thép; Blogger “Điếu Cày” Nguyễn Văn Hải,v,v... Ngoài ra tất cả những trang Web nào nhắc đến chủ quyền đất nước, thì hầu như đều bị phá hỏng hoặc ngăn cấm người dân truy cập, tìm hiểu. Như vậy, khi Nguyễn tấn Dũng tuyên bố "báo chí cần chủ động thông tin bảo vệ chủ quyền" là mong cho tất cả người dân Việt nam biết nguy cơ của đất nước chỉ là một trò hề, bịp bợm một cách quá ấu trĩ và rẻ tiền từ bản chất lưu manh, bịp bợm của CSVN mà thôi.

    Tóm lại, với những dẫn chứng nếu trên, hy vọng có thể làm sáng tỏ một phần nào qua câu tuyên bố bịp bợm của Nguyễn Tấn Dũng. Đồng thời mong rằng toàn dân Việt Nam sẽ có một cái nhìn chính xác hơn trước hiện tình đất nước, tránh được những trận khói mù từ CSVN và Việt gian tạo ra, để cò thể Kiên trì hơn, sáng suốt hơn trên con đường đấu tranh đòi lại quyền tự quyết của dân tộc. Đất nước là của chung tất cả mọi người Việt Nam, không thể dành riêng cho bè lũ vong nô hèn nhươc CSVN thao túng. Những luận điệu

    “CSVN đã ý thức, giác ngộ để bảo vệ chủ quyền. Chúng ta hãy vì công việc chung của đất nước, nối kết, giao lưu tạo sức mạnh để cùng bảo vệ và “canh tân”. Xoá bỏ cờ Vàng để có thể nối kết với lực lượng du sinh hầu tạo sự đoàn kết đi đến một niềm tin chung, một ý chí chung,v,v...”.
    Tất cả đều là sự lừa bịp của bè lũ Việt gian, đang tiếp tay cho CSVN thực hiện mưu đồ buôn dân, bán nước một cách nhe nhàng mà thôi.

    * Phạm Thanh Phương (Úc Châu)

    -Phạm Thanh Phương (Úc Châu)-

    Chờ đợi trong nôn nóng, băn khoăn, trăn trơ, lo âu, rồi những ngày xuân cũng phải trôi đi theo thời gian. Tuy vậy, dư vị của ngày xuân vẫn còn tồn đọng và những buồn phiền, lo lắng, băn khoăn tiếâp tục cuộc hành trình trên dòng đời. Riêng về sinh hoạt xã hội, ngoài giai tầng cán bộ các cấp và một số người làm ăn khá giả, có lẽ hương xuân vẫn còn man mác đâu đó, kể cả vật chất lẫn tinh thần của họ. Còn lại, đại đa số người dân thì tất cả những trăn trở lo âu, bương trải chỉ tạm lắng đọng, nín thở để tạm tìm một chít sinh khí trong ba ngày tết để khỏi áy náy với ông bà, tổ tiên , rồi sau đó khi trở lại, càng trở nên khó khăn hơn nữa bởi bị tồn đọng từ ngày tết. Sau tết, thị trường vật giá chưa được ổn định, làm ăn buôn bán khó khăn hơn, thậm chí còn phải thanh toán những nợ nần thiếu hụt của năm cũ, khi muốn có một chút không khí mùa xuân trong gia đình. Đây mới là điều lo lắng, trăn trở của xã hội bình dân.

    Riêng trong những ngày tết, một vài hiện tượng xẩy ra tại một số thành phố lớn như Saigòn, Hà nội,v,v... Câu chuyện “cải tạo hạ tầng cơ sở” tránh lụt bằng cách đào cống, sửa đường của nhà nước CSVN đã được thực hiện ngay trong những ngày sát tết. Sự kiện này cũng tạo ra một số câu chuyện vui buồn ”cười ra nước mắt” trong sinh hoạt xã hội và liên quan đến cả phần tâm linh. Theo một số tin trong nước cho hay, một số con đường lớn đã đuợc đào lên để kiểm tra sự “ùn tắc” của hệ thống cống. Chỗ này đào lên, chỗ kia lấp lại, cũng chẳng thấy sửa chữa được gì, ngược lại chỉ làm môi sinh thêm ô nhiễm, tạo thêm sự khó thở cho người dân trong những ngày bương trải với xuân. Cũng trong hiện tượng này, theo thói quen của người dân miền Nam, họ thường bày mâm cúng đầu năm với những trái cây như măng cầu, dừa, đu đủ và xoài và đọc trại âm đi là “Cầu Vừa Đủ Xài”, một ước nguyên rất khiêm nhường, mộc mạc đơn sơ, mâm cúng tượng trưng cho lời khấn chỉ “cầu vừa đủ ăn, uống, chi dùng” trong chộc sống, không cần mơ ước xa hoa, nhưng trong xã hội Việt Nam dưới chế độ CS thì dù đơn sơ như vậy có lẽ đã trở thành xa hoa lắm rồi. Riêng trong những ngày tết vừa qua, nhiều nơi bị đào đường lấp hố, khiến thành phố rất nhiều bụi bẩn đến khó thở khi trời nắng và bùn đất bẩn thỉu khi trời mưa. Đồng thời tạo ra rất nhiều trở ngại trong sinh hoạt của ngày tết. Vì vậy, năm nay một số nơi không còn “Cầu vừa đủ xài” nưã, mà họ đã rút gọn lời khấn, với những mâm cúng mang ý nghĩa mới thực tiễn hơn với một bó hành, một qua dưa, một quả dừa. Mân cúng này mang ý nghĩa kêu gọi đảng và nhà nước ơi “Hành vừa vừa thôi”. Thôi thì đói khổ tí cũng chai rồi, bớt hành hạ dân thêm nữa. Cái đau khổ của người dân dưới chế độ CS là khi bị uất ức điều gì, họ cũng chỉ có thể bày tỏ qua sự châm biếm bằng một cách “hợp pháp” như thế thôi. Không thể làm gì khác hơn nếu không muồn đầu xuân được đảng thỉnh đi ngồi gỡ vài cuốn lịch.

    Trong cuộc sống khó khăn của xã hội ViệtNam dưới chế độ CS. Thực tế không thể “khắc phục”, một ngày như mọi ngày, cứ mãi phải lay lứt lê thê, một năm như mọi năm, nó tựa như một chu kỳ tất định và bất biến. Tuy nhiên, ngoài cái chu kỳ tất định đấy đảng và nhà nước vẫn có những đổi mới, mang tính “đột phá” đến độ khủng khiếp, khó có ai có thể ngờ được lại có thể xẩy ra trên thế gian, nhất là trong thế kỷ văn minh tiến bộ hôm nay.

    Duyệt lại những đổi mới của đảng và nhà nước từ thập niên qua, có lẽ không ai có thể phủ nhận đảng và nhà nước mỗi ngày một “sáng suốt hơn” trong đối nội cũng như đối ngoại... Về mặt đối nội, đảng và nhà nước đã khôn khéo quy hoạch loanh quanh để cướp được một số bất động sản từ một số cơ sở Tôn giáo và cá nhân từng địa phương. Phương pháp đàn áp dân cũng tinh vi hơn, không còn dùng lực lượng công an trực tiếp bắn giết như xưa, để phải lộ ra cái thú tính và mang tiếng là dã man trước nhãn quan quốc tế, vì thế đảng và nhà nước đã nghĩ ra thượng sách là cho công an mặc thường phục, liên kết với một đám du đãng đầu trộm, đuôi cướp tấn công hành hung dân như đã từng xẩy ra tại Thái Hà, Bát Nhã, Đồng Chiêm hay đối với “dân oan” khiếu kiện nhà đất... Làm như thế sẽ tránh được tiếng là dã man đểu cáng, nếu quốc tế có trách thì cũng chỉ trách hệ thống trật tự xã hội qúa kém, không đủ sức giữa gìn trật tự an ninh cho xã hội, điều này đảng và nhà nước hứa sẽ “khắc phục” để chuyển hoá sang một hình thức khác tốt đẹp hơn.

    Riêng mặt đối ngoại, đảng và nhà nước CSVN cũng tỏ ra “Trí tuệ” hơn để thực hiện câu tục ngữ “Dĩ Hoà Vi Qúy” rộng rãi hơn.... Vừa có lợi cho đảng mà không sợ thất lễ với quan thầy Trung cộng, dù chỉ là lời nói xuông mang tính đãi bôi.

    Duyệt lại một năm vừa qua, sau khi Trung cộng khoanh vùng biển đông hầu như lấy gần hết lãnh hải của đất nước, nhưng đảng và nhà nước CS VN vẫn một mực kính cẩn tung hô cái tình hữu nghị “mội hở răng lạnh” với tinh thần ”bốn tốt và mười sáu chữ vàng”. Cũng vì vậy trong năm 2009 vừa qua ngư dân Trung cộng đã xâm phạm phần lãnh hải còn lại của Việt Nam là 130 lần, nhưng hầu như đảng và nhà nước ta cũng có lên tiếng chút đỉnh “năn nỉ” dừng vi phạm vậy nữa khó xử lắm. Ngược lại, ngư dân mình lở có vi phạm chút đỉnh, hang bị ghép vào vi phạm lãnh hải của họ thì coi như “Đời tàn trong ngõ hẹp”. Không những mất của còn mất cả mạng, hay ít nhất khi được thả về thì cũng đã trở thành “èo uột khó nuôi”.

    Câu chuyện vất vả với một cái tết chưa xong, người dân lại nhận được một cái tin như sét đánh ngang đầu, khiến những ai quan tâm đến đất nước đều cảm thấy choáng váng, từ người bình dân đến trí thức, kể cả thành phần đĩ diếm ma cô, dù là được liệt kê vào thành phần cặn bã của xã hội. Nhưng rất tiếc thành phần cốt cán trong guồng máy đảng và nhà nước lại cho đây là một sự “đột phá” siêu việt mà có lẽ chỉ có những “Đỉnh cao trí tuệ” như đảng và nhà nước CSVN mới đủ khả năng suy nghĩ và thực hiện một cách rất tinh vi như thế này. Không tặng, không nhượng, Trung cộng không cần xâm lăng, chỉ ký hợp đồng thuê một số tỉnh biên giới phía Bắc với thời gian là 50 năm là xong. Sự kiện này có lẽ đã xẩy ra từ lâu, đến nay bị bại lộ, thì đám Trung ương lại tỏ ra ngây thơ không biết gì, cho đây chỉ là những hành động đơn lẽ của các tỉnh. Do đó, đảng và nhà nước cũng đã “kêu gọi các tỉnh nên ngưng việc cho mướn đất”. Và cũng chẳng thấy có một hành động nào hay biện pháp chế tào nào với tội trạng nghiêm trọng này. Như vậy cái guồng máy CSVN là cái giống gì, luật pháp ở đâu sao không đem ra áp dụng trong trường hợp này mà chỉ biết dùng luật để bịt miệng dân. Một việc hệ trọng, liên quan đến sự tồn vong của đất nước mà đảng coi như chuyện vui chơi, chỉ khuyến cáo vài lời không nên là xong. Một điều vô lý hơn nữa, khi đại diện chính quyền cho ngoại kiều mướn đất mà bộ ngoại giao cũng không biết. Như thế, nguyên tác và hệ thống ngoại giao nằm ở đâu, hay sự liên hệ chủ và tớ thì đại khái sao cũng được. Điều này chứng tỏ đã có sự thoả thuận từ trung ương đến địa phương, nếu không thì đảng và nhà nước CSVN chỉ là một đám thổ phỉ ô hợp, thuộc loại “Quân Hồi Vô Phèng” chẳng ra cái gì cả, như thế xét ra còn tện hơn một bọn ma cô trong làng chơi.

    Cung trong sự kiện cho Trung cộng mướn đất, đại đa số nhận định, chẳng qua đây chỉ là một sự đổi mới, đột phá về tư tưởng để cống hiến đất đai và tài nguyên cho quan thầy cách tinh vi hơn, cùng lắm cách chức vài tên Tỉnh Ủy lấy lệ, nhưng hợp đồng đã ký rồi, không thể thay đổi. Như vậy đất nước sẽ ra sao?... Có lẽ ai cũng biết một khi thuê mướn đất như vậy, Trung công sẽ có toàn quyền khai thác mọi mặt, họ có quyền thiết lập hệ thống hành chánh, quân sự, tình báo, giáo dục, y tế ... Nó cũng tưạ như người Anh mướn Hồng Kông 99 năm trước đây mà thôi. Cũng trong vấn đề này, một số người lo xa, không biết sau 50 năm Trung cộng có trả lại hay không, và trả như thế nào?... Tuy nhiên, một số người khác thực tế hơn nêu ra vấn đề, không biết trong vòng 50 năm tới đây, với tham vọng bành trướng cuả Trung cộng và bản chất tay sai của CSVN, không biết đất nước có còn không, nói gì đến chuyện trả lại hay không.

    Song song với sự kiện này, một số cơ quan truyền thông Việt ngữ đưa tin, ngay ngày mồng một tết xuất hiện một số truyền đơn kêu gọi dân chủ của một vài đảng phái chinh trị tại hải ngoại, hiện tượng này cũng là một đề tài bàn tán, và cũng nhiều người cho rằng đây cũng có thể là một trái khói mù, tập trung dư luận để làm nhạt dần sự kiện bán nước cuả CSVN qua hình thức cho trung cộng thuê đất một số tỉnh biên giới phiá bắc.

    Xoay quanh trong câu chuyện đầu năm, tại một số tổ chức trong cộng đồng người Việt tại hải ngoại cũng bị một số thành phần đảng phái tả khuynh lũng đoạn, tạo ra nhiều những biến động nhiêu khê, gây phân hóa hầu giảm thiểu niền tin trong đấu tranh từ nhiều giới đồng bào trong cũng như ngoài nước. Hiện tượng mới nhất gây nhiễu loạn và phân hoá là một cuộc biểu tình tại Pháp, cũng mang ý nghĩa chống CSVN, nhưng Ban Tổ Chức không cho mang cờ Vàng và giải thích “vì có thành phần du sinh tham dự nên sợ họ dị ứng với lá cờ vàng mà không tham gia”. Như vậy, thử hỏi du sinh là gì ? Và cộng đồng người Việt tại hải ngoại lại phải chối bỏ căn cước tỵ nạn của mình chỉ vì một nhóm du sinh CSVN. Trước sự kiện này, đa số lại nhớ đến chủ trương nối kết du sinh, hoà đồng, cùng canh tân đất nước của đảng Việt Tân. Để chứng minh cho điều này, đi ngược dòng thời gian khi hiện tượng Trung cộng chính thức lấy Hoàng Sa, Bs Đoàn Trọng Việt và Gs Nguyễn Ngọc Bích thuộc đảng Việt Tân đã từng lên đài phát thanh Tiếng Nước Tôi, thảo luận và đồng kêu gọi, vì hoà đổng vơi du sinh, đi biểu tình chống Trung cộng không mang cờ gì cũng được hay mang cờ đỏ, vàng gì cũng được... Và tại Úc Châu, luận điệu này cũng được tung ra vận động vận động, nhưng rất tiếc họ không thành công bởi sự sáng suốt của đồng hương và Ban Chấp Hành Cộng Đồng sở tại... Bây giờ nhân việc CSVN cho Trung cộng “thuê đất” thì những trái hoả mù lại được tung ra.

    Đầu năm, duyệt qua một số sự kiện chung như một tạp ghi để mong chia sẻ và cảnh giác cùng độc giả trong tinh thần đoàn kết đi tìm một muà xuân thực sự cho quê hương dân tộc. Do đó, trước tình hình mỗi ngày một bi đát của đất nước nói cung và cộng cuộc đấu tranh nói riêng. Mong rằng, chúng ta nên cảnh giác đi vào điểm chính trực diện với những hiện tượng hay sự kiện buôn dân, bán nước của CSVN. Đồng thời cảnh giác với những trận hỏa mù của đám việt gian, nằm vùng đang cố gắng tập trung dư luận vào nhũng điểm nhỏ nhặt mà quên đi mục tiêu lớn trong cái cảnh “Tham một bát, bỏ cả mâm” vậy.

    * Phạm Thanh Phương (Úc Châu)