"...trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng..."
Trong những ngày gần đây, sự kiện biển đông đã trở nên sôi nổi trong dư luận khắp thế giới, mặc dù những chuyện xẩy ra không phải là điều mới lạ, mà từng xẩy ra trong nhiều năm qua. Riêng với cái nhìn của người dân Việt Nam, bỗng nhiên đã trở nên nghiêm trọng như một hiện tượng rất lạ, phải chăng đây là hiện tượng báo hiệu một sự “tức nước, vỡ bờ” khi sức chịu đựng của con người đã vượt qúa mức giới hạn. Tuy nhiên theo dư luận chung, tất cả những phản ứng vẫn còn rất hạn chế và khiêm nhường, dường như đang chờ nơi thái độ ứng xử của đảng và nhà nước CSVN. Trong sự chờ đợi này, một số người hy vọng CSVN sẽ giác ngộ quay về cùng dân tộc, dùng sức mạnh dân tộc làm tiềm năng đối ngoại bảo vệ giang sơn. Ngược lại, đa số lại tỏ ra thất vọng, và sự thất vọng có vẻ đã lên đến một đỉnh cao, vì họ cho rằng hèn nhược đối với Trung cộng là một bản chất cố hữu bất khả di của đảng và nhà nước CSVN.
Nhận định về thái độ ứng xử của đảng và nhà nước CSVN, một số cho rằng đảng và nhà nước CSVN không hèn, nhưng vì không đủ lực đối đầu với Trung cộng, nên đành phải “Nín thở qua sông”, nếu tỏ thái độ cứng rắn trực diện đối đầu để bảo vệ chủ quyền, e rằng sẽ làm mất lòng quan thầy và tạo ra chiến tranh, xương lại rơi, máu lại đổ, tất cả thiệt thòi, cuối cùng chỉ có người dân Việt Nam là thành phần phải gánh chịu toàn thể hậu quả. Với nhận định này đã được đa số cho là một sự phỉ báng tinh thần dân tộc của người dân Việt, trong khi tinh thần yêu nước và truyền thống bất khuất của dòng lịch sử hơn bốn ngàn năm vẫn còn đó, người dân Việt không bao giờ có thể bình tĩnh cúi đầu nhìn giang sơn đang mất dần trong tay ngoại bang một cách nhục nhã giống như đảng và nhà nước CSVN. Người dân Việt luôn sẵn sàng bảo vệ tổ quốc khi lâm nguy. Hơn nữa, đây là thời điểm của thế khỷ 21, không phải thời tiền sử hay trung cổ mà có thể ỷ thế mạnh hiếp yếu một cách trắng trợn như xưa. Sự không đủ lực của Việt Nam thì ai cũng biết, nhưng còn công luận, công pháp quốc tế ở đâu, sao không thấy đảng và nhà nước CSVN thực hiện.
Nói về khả năng cuộc chiến có thể xảy ra hay không, theo một số phân tích và nhận định, dù CSVN có tỏ ra cứng rắn, dứt khoát chăng nữa, một cuộc chiến đẫm máu cũng khó có cơ hội xẩy ra. Sự ngang ngược cuả Trung cộng đối với Việt Nam chỉ là sự “nắn gân”, nếu mềm thì “nằn tiếp”, nếu rắn thì buông. Bởi lẽ một khi Trung cộng khai diễn cuộc chiến cũng rất nhiêu khê và phức tạp, tất nhiên không chỉ với Việt Nam, mà họ phải đối đấu với nhiều quốc gia trong vùng, nhất là những quốc gia trong vùng tranh chấp đã từng bất mãn nhiều năm. Đồng thời với những phong trào nổi dậy đòi độc lập hay tự trị trong nội địa Trung cộng cũng sẵn sàng bùng nổ mạnh khi có chiến tranh xảy ra. Hơn nữa vì quyền lợi chung, tất nhiên một số cường quốc Âu Mỹ cũng sẽ phải quan tâm, can thiệp. Như vậy, Trung cộng sẽ bị cô lập về đối ngoại, xáo trộn trong đối nội, làm sao cò thể kiện toàn. Đây cũng là yếu tố quan trọng khiến cuộc chiến khó xẩy ra và cũng là một mối ưu tư lớn của Trung cộng trong hiện tại. Chính vì thế mà Bộ ngoại giao Trung cộng đã tuyên bố sẽ “không giải quyết những tranh chấp trên biển Đông bằng vũ lực”, và kêu gọi “các nước trong vùng liên quan nên tự chế để có thể giải quyết thỏa đáng trong ôn hoà qua đàm phán ngoại giao”. Như vậy, luận điểm chỉ vì lực yếu mà chịu nhục, không dám dứt khoát bày tỏ quan điểm, lập trường về chủ quyền đất nước bằng những hành động cụ thể, chắc chắn không thể thuyết phục được ai. Bằng chứng, trong tranh chấp vùng biển đông không chỉ có Tầu cộng và CSVN mà còn nhiều quốc gia khác trong vùng, trong đó có Philippines. Riêng Philippines là một quốc gia nhỏ hơn và có tiềm năng quân sự yếu hơn Việt Nam rất nhiều. Tuy nhiên họ vẫn có thái độ cứng rắn trong lập trường bảo vệ chủ quyền của họ. Bằng chứng, sau những bức thư ngoại giao lên Liên Hiệp Quốc để phản đối sự khoanh vùng lưỡi bò của Trung cộng, họ cũng đang chuẩn bị gởi lên LHQ một bản phúc trình về những hành động bá quyền của Trung cộng trên vùng biển thuộc quần đảo Trường sa. Philippines cũng đưa một số tầu chiến đến biển Đông để sẵn sàng đối phó với những sự ngang ngược của Trung cộng. Ngoài ra, Philippines còn nhổ những cọc lạ trên ba bãi đá ở vùng biển đang tranh chấp . Như vậy, lý do không đủ sức mạnh quân sự mà phải cúi đầu chịu nhục hoàn toàn sai trái. Đó chỉ là những lời ngụy biện của những kẻ yếu hèn, mang bản chất nô lệ.
Cũng trong vấn đề này, Lê Đức Anh, một cựu Chủ tịch nước của CSVN cũng nhìn nhận “Muốn bảo vệ chủ quyền ờ biển Đông, phải giữ thái độ không sợ... Công khai thông tin là cách thể hiện sự đồng thuận và sức mạnh toàn dân”. Nhận định này rất chính xác và sáng suốt, nhưng rất tiếc Lê Đức Anh chỉ dám nhận định khi đã hết quyền lực. Còn lúc đương thời thì cũng “Cá mè một lứa”, cũng kính cẩn tung hô khẩu hiệu 4 tốt và 16 chữ vàng như đảng và nhà nước hiện tại, chẳng có gì khác biệt.
Nhận định về sự “sáng suốt” và chính xác của Lê Đức Anh, đi ngược dòng lịch sử để thấy được mặc dù ngày xưa dân trí còn thấp kém, chưa có sự bang giao quốc tế, chưa có công pháp quốc tế như ngày nay. Hơn nữa, các triều đại chống Tàu trong suốt cả nghìn năm, cũng chẳng có triều đại nào có sức mạnh ngang hàng với Tầu, thế nhưng tại sao tổ tiên vẫn có những chiến thắng lừng lẫy. Điều này thiết nghĩ có lẽ ai cũng biết, tổ tiên giữ vững và phát triển được giang sơn là nhờ vào sự khôn khéo biết nhu, cương đúng lúc. Ngoài ra yếu tố quan trọng nhất chính là sự đồng thuận với toàn dân, tất cả các triều đại chiến thắng Tầu đều nhờ vào niềm tin và sự đồng thuận của toàn dân, triều đình và toàn dân xiết chặt bàn tay, cùng chung một ý chí, một tâm huyết trong tình yêu nước. Ngược lại, ngày nay CSVN chỉ biết nịnh bợ ôm chân Tầu cộng, đàn áp và khống chế người dân, thậm chí tình yêu nước của dân tộc cũng bị bóp nghẹt. Người dân Việt Nam đã không có một tí niềm tin nào vào đảng và nhà nước. Đảng và nhà nước CSVN luôn coi dân như nô lệ dùng để bóc lột và hành hạ. Một nhà nước mà chỉ biết dùng vũ lực khống chế dân như CSVN thì chuyện làm tay sai cho ngoại bang để củng có địa vị cũng không phải là một chuyện lạ... Để chứng minh cho điều này, không cần nghiên cứu xa xôi, chỉ cần nhìn vào những cuộc biểu tình chống Tầu tại quốc nội trong mất ngày qua sẽ rõ. Người dân phẫn uất vì sự ngang ngược của Tầu cộng, nói lên tiếng nói của họ bằng những bàn chân gầy guộc niềm tin, mặc dù yếu ớt và lác đác, nhưng đảng và nhà nước vẫn cố gắng ngăn cấm, đàn áp. Như vậy, thử hỏi đảng và nhà nước CSVN đang làm việc cho ai? Cho dân Việt, nước Việt hay cho Tầu cộng. Đây là một câu hỏi lớn mà hầu như đại đa số đã có câu trả lời.
Xoay quanh vấn đề tại biển Đông, một số nhận định cho rằng đây là lúc đảng và nhà nước CSVN tỏ ra lo lắng và sợ hãi nhất trong suốt dòng lịch sử đảng của họ. Nỗi sợ hãi xuất phát từ sự mất niềm tin, đảng và nhà nước CSVN không tin dân và ngược lại dân cũng không tin đảng và nhà nước. Tuy nhiên, trong lúc nguy cấp, sôi động này, nếu nhà nước CSVN dám vận động dân, cho dù chỉ là vận động ngầm, chắc chắn những cuộc xuống đường biểu tình lên án sự xâm lăng ngang ngược cuả Tầu cộng sẽ quy mô, có thể lên đến con số hàng triệu người, và đó là điều thể hiện sức mạnh của dân tộc. Từ đó, đảng và nhà nước CSVN có thể dựa vào để hiên ngang đối diện sự việc, đồng thời cũng là một tiếng vang mãnh liệt để quốc tế phải quan tâm tích cực hơn. Điều này, thiết nghĩ đảng và nhà nước CSVN cũng đã biết, cho dù có ngu độn không nhìn ra, nhưng chắc chắn đã có nhiều người dạy cho biết, thế nhưng rất tiếc vì bản chất gian tham cố hữu, tham quyền cố vị, đảng và nhà nước CSVN lại sợ hãi không dám thực hiện, họ sợ nếu để cho dân tự do bày tỏ lòng yêu nước thì lại e rằng sẽ tạo ra một tiền lệ khó dẹp bỏ sau này, hoặc rất có thể người dân vừa chống Trung cộng xâm lăng vừa lên án chống đảng và nhà nước về tội buôn dân bán nước, cướp của, giết người mà người dân bị dồn nén từ nhiều thập niên qua. Ngược lại, nếu đảng và nhà nước CSVN tiếp tục nhu nhược, hèn hạ ôm chân Tầu cộng thì cũng không ổn, đất nước cũng sẽ mất, cùng lắm đảng CSVN được trở thành những tên Thái thú tay sai, và lúc đó trong cái thế “tức nước vỡ bờ”, người dân cũng không thể tiếp tục im lặng hay nhẹ nhàng, mà ngược lại những trận cuồng phong sẽ xuất hiện, quét sạch chế độ, nhận chìm trong hố sâu của lịch sử.
Tóm lại trong cái thế “Tấn, thối lưỡng nan” này, thiết nghĩ CSVN chỉ có một con đường duy nhất là phải trở về với chính nghĩa dân tộc, trả lại quyền tự quyết cho dân tộc, trả lại tự do và nhân quyền, cùng xiết chắt tay với toàn dân để vực dậy sức mạnh dân tộc mà chính CSVN đã kiềm chế từ gần một thế kỷ qua. Chỉ có thế mới có thể giữ vững được chủ quyền đất nước và đoái công chuộc tội với dân tộc và tổ quốc. Bằng ngược lại, cứ tiếp tục ôm chân Trung cộng, khống chế lòng yêu nước của dân tộc, có lẽ kết quả đảng và nhà nước sẽ nhận được là một hoàn cảnh tang thương khó lường. Đây là một khúc quanh của lịch sử để đảng và nhà nước lựa chọn, và cũng là lúc vận nước bắt đầu phải xoay chuyển, nhanh hay chậm còn tùy vào sự cương quyết và ý chỉ của toàn dân.
Phạm Thanh Phương (Úc Châu)
Khác với những lần bầu cử quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp những lần trước, lần này trong dịp bầu cử quốc hội khóa 13, nhà nước CSVN và khối truyền thông trong nuớc đã tạo ra một không khí ồn ào hơn. Với những nhận định, quan tâm, phỏng vấn cử tri và phỏng vấn ứng viên rất sôi nổi. Ngoài ra, cũng có những đóng góp ý kiến đóng góp từ những đại biểu quốc hội đương nhiệm và tiền nhiệm với những kinh nghiệm, nhằm hướng dẫn các ứng viên mới về cách vận động, chức năng và bổn phận của một đại biểu khi ứng cử và khi đắc cử một cách rõ ràng. Tuy vậy, đại đa số người dân vẫn cho rằng tất cả chỉ là bánh vẽ, có nói gì chăng nữa cũng chỉ là những giọt rượu cũ được trút sang một chiếc bình mới, chẳng có gì đặc biệt đáng qua tâm.
Nhìn vào hình thức cuộc bầu cử khoá 13 sắp tới đây, người ta có thể thấy được một sự cải tiến khá hấp dẫn như lời khuyến cáo của ông Nguyễn Sĩ Dũng, Phó Chủ Nhiệm văn phòng quốc hội CSVN. Theo kinh nghiệm, ông Dũng cho biết
“khi tiếp xúc với cử tri, nếu các ứng viên trình bày đường lối, chủ trương hành động của mình theo kiểu học thuộc bài, cử tọa có thể vỗ tay, hoan nghênh, nhưng chưa chắc cử tri sẽ dồn phiếu cho những người ăn nói lưu loát, hấp dẫn người nghe, vì lý thuyết và thực hành khác xa nhau rất nhiều”. [1]
Cũng trong những nhận định về vai trò đại biểu quốc hội hay “hội đồng nhân dân” các cấp, đa số dư luận cho rằng những người thực sự có tài, có tâm huyết với đất nước, muốn lo cho dân được một cuộc sống ấm no, muốn nhân quyền và nhân phẩm của người dân được tôn trọng thì họ lại không dám đệ đơn xin ứng cử với một số lý do điển hình như không đủ điều kiện để được đề bạt, dù có vận động để được đề bạt cũng khó lòng mà đắc cử. Hơn nữa, dù những người này có khôn khéo luồn lách để đi qua được hai cửa aỉ đề bạt và đắc cử chăng nữa thì chắc chắn họ sẽ trở thành một “ông phỗng” nơi nghị trường, nếu họ không muốn trở thành tội nhân của chế độ với những tội danh điển hình như "âm mưu lật đổ chế độ" hay "tiết lộ bí mật nhà nước",v,v...
Nhìn vào hoàn cảnh đất nước dưới chế độ độc tài, toàn trị CSVN từ hơn 60 năm qua với miền Bắc và 36 năm qua với miền Nam, chắc chắn không ai có thể ngộ nhận CSVN là một tập đoàn cai trị có thể có ý thức và giác ngộ để đưa đất nước và con người hướng thượng, mà chỉ toàn thấy đưa cả một đất nước và dân tộc hướng hạ đến tận cùng.
Nếu một người nào đó cho rằng những đại biểu quốc hội hay các hội đồng nhân dân các cấp được quyền nói lên tiếng nói trung thực từ những tư duy của họ để tranh đấu quyền lợi cho dân, thì thử hỏi tại sao những bất công vẫn tràn lan, càng ngày càng tăng, chưa bao giờ thấy giảm. Và nếu nói rằng các đại biểu không phải là một công cụ để đảng CSVN xử dụng như con rối, thì chẳng lẽ tất cả đã bị mù hết sao mà họ không thấy những bất công, băng hoại của xã hội. Biết bao nhiêu oan khiên đã và đang ngự trị trên từng nẻo đường đất nước, quốc hội và các đại biểu đã thấy gì và làm gì? Đây là một câu hỏi lớn và không có câu trả lời từ nhiều thập niên qua, từ khi các đại biểu xuất hiện. Cũng chính vì thế người dân đã mất hết niềm tin nơi hệ thống cầm quyền, có nói gì chăng nữa cũng chẳng ai thèm quan tâm.
Nhìn lại thập niên vừa qua, từ những việc dâng đất, biển cho Trung cộng qua hai hiệp định “Phận định lãnh thổ và lãnh hải” do Lê Công Phụng Ký trong hai năm 1999 và 2000; Hiện tượng mất Hoàng Sa và việc cho Trung cộng “thuê dài hạn” 300 ngàn Hecta đất thuộc 10 tỉnh biên giới phiá bắc, thậm chí ngư dân Việt Nam bị Trung cộng bắt giữ, hành hạ và sát hại, quốc hội cũng có làm được gì ? Đó là đối ngoại, còn lại đối nội thì lại quá nhiêu khê, người dân phải ngụp lặn trong một xã hội rối beng như một đống rác, ai là người quan tâm và giải quyết? Lãnh vực y tế thì lạc hậu, bất công. Giáo dục suy đồi, bằng cấp đem rao bán như mớ rau, ký cá, xã hội đầy rẫy tệ đoan, tôn giáo bị trù dập, bắt bớ, cầm tù bừa bãi, tùy tiện... Một vấn đề đặc biệt đã trở thành một câu chuyện dài nhiều tập với tự đề “Dân oan” vẫn tiếp diễn suốt mấy chục năm qua, quốc hội và đại biểu các cấp có thấy không? Nếu thấy thì họ đã làm được gì để giúp đỡ cho những người dân khốn cùng đang lang thang “khiếu kiện” vì nhà, đất, ruộng vườn của họ đã bị cướp đi một cách trắng trợn chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Thực ra, nếu nói rằng quốc hội CSVN hoàn toàn chỉ biết im lặng cúi đầu “nín thở qua sông” thì không đúng hẳn, họ cũng có lên tiếng, lên tiếng một cách lác đác như những những chiếc lá thu cuối mùa. Hơn nữa sự lên tiếng của họ cũng phải được chỉ thị từ đảng để tạo ra một bình phong dân chủ che mắt thế gian, giống như cảnh “:cỡi ngựa xem hoa” cho vui, cuối cùng cũng chẳng có gì ảnh hưởng đến ai. Điều này có lẽ ai cũng nhìn thấy qua hiện tượng ồn ào như họp hành khuyến cáo nhà nước ngưng thực hiện dự án cho nước ngoài khai thác Bauxite, ngưng các hợp đồng cho nước ngoài thuê rừng dài hạn, làm ảnh hưởng đến an ninh lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, tác hại đến môi trường,v,v.. Tất cả, rộ lên như một trái bóng rồi lại xẹp lép để đi vào quên lãng một cách rất ư là tự nhiên.
Tóm lại, dưới chế độ độc tài, toàn trị CSVN, đại biểu quốc hội hay đại biểu hội đồng nhân dân các cấp chẳng khác nào những con rối cuả đảng, đảng giựt dây nhảy muá cho vui, đồng thời dùng làm bình phong ra chuyện dưới chế độ CSVN vẫn có dân chủ, người dân vẫn được chọn người đại diện để bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi của họ. Điều này chỉ có thể bịp được quốc tế, tạo điều kiện để một số nước có lý do chính đáng để bang giao qua quyền lợi, nhưng đối với người dân Việt thì không thể. Chính vì vậy, tại sao suốt mất chục năm qua dưới chế độ CSVN, người dân không quan tâm đến sự bầu chọn “người dại diện”, mặc dù đảng và nhà nước cố tạo sự sổi nổi để gây chú ý, nhưng tất cả vô hiệu. Một điều bất khả chối từ như một chân lý mà ai cũng biết là dưới một chế độ lạc hậu, độc tài, toàn trị như CSVN thì muôn đời chẳng bao giờ có thể giác ngộ thay đổi để thăng hoa đất nước và dân sinh. Dù có tạo sự kiện ồn ào ra sao chăng nữa, thì cũng không ra ngoài câu tục ngữ “Mười voi không được một bát mước xáo”. Muốn người dân quan tâm, hăng hái tham gia sự lựa chọn người đại diên cho họ, chỉ khi nào quyền làm người của họ thực sự được tôn trọng, lúc đó sự lựa chọn của họ mới có giá trị và những đại diện họ đã tin bầu ra cũng sẽ được quyền tự do bảo vệ họ. Muốn được như thế, đảng và nhà nước CSVN phải ra đi, trả lại tự do, dân chủ cho toàn dân. Ngược lại, một ngày CSVN còn tồn tại, ngày đó người dân vẫn phải lầm lũi đi trong bóng tối của nhân loại và cũng chẳng thèm quan tâm đế hệ thống cai tri, ngoài sự cảnh giác và sợ sệt cho bản thân.
[1] Đỗ Hiếu, 2011, Cử tri sẽ bầu người đại diện xứng đáng, RFA
http://rfavietnam.wordpress.com/2011/05/10/c%E1%BB%AD-tri-s%E1%BA%BD-b%E1%BA%A7u-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-d%E1%BA%A1i-di%E1%BB%87n-x%E1%BB%A9ng-dang/
Những sự kiện buôn người tại Việt Nam dưới chế độ CS đã được thực hiện qua rất nhiều hình thức từ sự cấu kết giữa tập đoàn cai trị và băng đảng xã hội đen, hoặc chính thức qua các công ty môi giới, mà nạn nhân cũng thuộc nhiều lứa tuổi, nhiều thành phần. Điều dã man và tang thương nhất là hàng trăm ngàn trẻ em tuổi từ 5 đến 14 đã được “xuất khẩu” làm nô lệ tình dục tại các nước lân bang, những phụ nữ bị buôn bán qua hình thức hôn nhân và hàng loạt thanh niên được buôn bán qua chiêu bài “xuất khẩu lao động” như đã xẩy ra tại Hoa Kỳ hiện nay.
Riêng lãnh vực “Xuất khẩu lao động”, tất cả những lừa đảo của các công ty mối giới liên thủ với nhà nước đã tạo ra biết bao nhiêu cảnh thương tâm từ hàng thập niên qua như tại Mã Lai, Đài Loan, Đại Hàn,v,v... Từ những hợp đồng dối trá và sự ngược đãi nơi làm việc đã khiến những công nhân “xuất khẩu” trở thành nạn nhân của chính sách buôn bán nô lê mới, thậm chí có nhiều nữ công nhân đã bị hành hạ và trở thành nô lệ tình dục, hoặc trong đời sống kiệt quệ nơi xứ người, một số nữ công nhân phải tự nguyện hành nghề mãi dâm để tìm lộ phí trở về gia đình, trong khi nhà nước CSVN không hề quan tâm giải quyết, thậm chí còn ép buộc những nạn nhân không được bỏ trốn, nếu bỏ trốn về nước sẽ mất luôn khoản tiền thế chân và sẽ bị phạt “cải tạo lao động” từ sáu tháng đến ba năm. Tuy nhiên “đi đêm mãi rồi cũng có ngày gặp ma”, bởi quen thói lừa đảo, bóc lột nên CSVN đã quên Mỹ là một nơi tôn trọng nhân quyền và Mỹ cũng là nơi cộng đồng người Việt tỵ nạn đông nhất, thành công nhất trên thế giới. Vì thế với tình nhân loại và nghĩa đồng bào, vụ việc lừa đảo buôn người cuả CSVN đã được phơi một cách rõ rệt và trở thành một sự kiện làm chấn động lương tâm đối với Hoa Kỳ nói riêng và thế giới nói chung.
Theo dõi tin tức, hai công ty Interserco và Vinamotors, có trụ sở tại Hà Nội, đã bị 13 trong số 50 công nhân đến từ Việt Nam đứng đơn khởi kiện tại Texas [1]. Theo các nguyên đơn tố cáo, họ đã bị lừa bởi các quảng cáo hoa mỹ trên đài truyền hình VN, họ đã phải trả một số tiền lớn đến hàng ngàn Dollars để được sang Texas làm thợ hàn trong xưởng đóng tầu Houston Ship Channel với hợp đồng là 30 tháng, trong những điều kiện sinh hoạt khá tiện nghi và số lương khá hấp dẫn. Nhưng rất tiếc khi đến đặt chân đến Mỹ, tất cả đã hoàn toàn trái ngược với những quảng cáo và điều kiện đã ký kết, những công nhân này đã phải làm việc và sinh hoạt trong một hoàn cảnh rất tồi tệ như những tù nhân nô lệ, họ bị hiếp đáp đủ điều và còn bị khấu trừ mỗi tháng 2000 dollars. Tuy thế, nhưng mới làm được 8 tháng họ lại bị sa thải chơ vơ nơi xứ người.
Nói về hoàn cảnh cư trú của công nhân, Nguyễn Trí Dũng, Phó tổng giám đốc Công ty Công ty xuất khẩu lao động thương mại và du lịch trực thuộc Vinamotors ngoan cố lấp liếm, lừa bịp:
”công nhân lưu trú trong khu gia cư đầy đủ tiện nghi, điều này được kiểm chứng bởi đoàn công tác của liên bộ Ngoại giao, Lao động Thương binh Xã hội trong chuyến viếng thăm Mỹ hồi tháng 5/2010” [1].
“Theo thủ tục I-129 của Bộ Lao động Mỹ chỉ có hiệu lực trong vòng 10 tháng sau đó phải xin gia hạn visa tiếp. Nếu không được gia hạn visa thì phải về nước, người lao động trước khi lên đường sang Mỹ đã được cung cấp thông tin chính xác về thời hạn làm việc thực tế và khả năng tiếp nhận có thể được gia hạn giấy phép hoặc không".[1]
“Họ đến Mỹ với Visa H2B, loại Visa tạm thời cho công nhân làm việc tại Mỹ, và được công ty môi giới hứa hẹn là Visa sẽ được gia hạn, nhưng chưa bao giờ Visa của những công nhân này được gia hạn cả. Đến ngày mà đáng lẽ Visa của họ được gia hạn thì họ lại được chỉ thị là phải trở về nước trong vòng 24 giờ đồng hồ”. [2]
“Chúng tôi rất tin tưởng rằng họ đủ điều kiện để xin T-Visa, là loại Visa cho nạn nhân của sự buôn người. Chúng tôi tin rằng những sự kiện mà họ đã trải qua như phải trả tiền để được qua đây, rồi bị đối xử như những tù nhân mặc dầu phải trả những chi phí cho cuộc sống tại đây ... và họ đã hoàn toàn bị bóc lột, bị lợi dụng. Thật khó mà tưởng tượng được là những sự cố như vậy lại xảy ra ngay tại Hoa Kỳ” [2]
Tóm lại, dù có già mồm, ngụy biện hay cưỡng từ đoạt lý đến đâu chăng nữa, nhưng đối với luật pháp của một quốc gia văn minh, có dầy đủ Tam Quyền Phân Lập và tôn trọng nhân quyền như Hoa Kỳ, lẽ phải và sự công bằng đã được thể hiện minh bạch với phán quyết của toà án phạt hai công ty môi giới phải bồi thường dân sự cho các nạn nhân 60 triệu dollars. Đồng thời hai công ty Luật sư Tammy Trần và Tony Buzbee tiếp tục đại diện các công nhân Việt Nam chính thức khởi kiện 2 công ty Việt Nam là Interserco và Vinamotors về tội buôn người và vi phạm khế ước tại tòa án liên bang, khu vực Galveston, thuộc tiểu bang Texas.
Nhìn về sự kiện nêu trên đa số nhận định, trên hình thức sự lừa đảo, bóc lột xẩy ra chỉ là những công ty tư nhân, nhưng thực chất là từ chính sách của tập đoàn CSVN. Bởi lẽ ai cũng biết, lừa đảo bóc lột là bản chất cố hữu của CSVN. Nếu không có tập đoàn lãnh đạo CSVN nhúng tay, không công ty nào dám đưa người đi một cách vô trách nhiệm như đã từng xẩy ra tại Mã Lai, Đại Hàn, Đài Loan trong nhiều năm qua, và sự kiện buôn người xẩy ra tại Texas cũng là một bài học để đời cho CSVN. Đồng thời sự kiện cũng nới rộng hơn cái nhìn của nhân loại đối với chế độ phi nhân CSVN và cũng cho một số người còn u mê có thể thức tỉnh, không còn vương vấn với những nhận định mơ hồ cho rằng; 'CSVN đã giác ngộ thay đổi, đang tập trung xây dựng đất nước và con người, đất đã khởi sắc và đang trên đà phát triển mọi mặt, do đó ai còn mang trong người dòng máu Việt Nam, nên nỗ lực đóng góp để cùng “canh tân” đất nước, thay vì chống đối, đấu tranh'. [3]
Phạm Thanh Phương (Úc Châu)
Tài Liệu Tham Khảo:
[2] Hiền Vy, thông tín viên RFA, 2011-04-26, Khía cạnh pháp lý trong vụ kiện 2 công ty Việt Nam buôn người, Radio Free Asia, lâ'y trên web vào ngày 06 tháng 5, 2011 <http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2-vn-firms-legal-issues-hv-04262011171820.html>
[3] Lý Thái Hùng, 2004, Dân Giàu Nước Mạnh, VietTan,org, lâ'y trên web vào ngày 06 tháng 5, 2011 <http://viettan.org/spip.php?article226>
”Quá an phận và nhẫn nhục” như lời Ls Lê Thị Công Nhân đã nhận định trong một bài phỏng vấn của RFA mới đây.