"...trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng..."

Phạm Thanh Phương (Úc Châu)

Theo tinh thần Hội Nghị những quốc gia tài trợ cho Việt Nam tại Hànội trong hai ngày 3-4 /12/2009, đã cam kết tài trợ cho CSVN một số ngân khoản đáng kể khoảng 8 tỷ USD, trong đó 6 tỷ là cho vay và số con lại gần 2 tỷ là viện trợ. Tuy đã cam kết tài trợ, nhưng đa số đại diện các quốc gia hiện diện cũng tỏ ra rất quan ngại về một số vấn nạn quan trọng tại Việt Nam như tham nhũng, tự do thông tin và nhân quyền. Từ sự quan ngại này, một số dư luận nghĩ rằng ánh sáng của tự do và nhân quyền đang bắt đầu ló dạng trên quê hương Việt Nam, và đất nước chắc chắn sẽ tươi sáng hơn dù chế độ thối nát, tàn bạo dã man CSVN vẫn tồn tại. Tuy nhiên đại đa số lại cho rằng, tất cả những nhận định của các nước tài trợ cho VN vừa qua chỉ mang tính hời hợt theo kiểu “cỡi ngựa xem hoa”, nó không thể xem như là một áp lực hay một chất liệu để có thể đốt lên một ánh sáng thực sự cho đất nước, dù chỉ là một tia sáng le lói cuối đường hầm.

Nói về sự tài trợ năm nay, theo tin nhiều nguồn tinh chính thức cho biết, Ngân hàng Thế giới cam kết tài trợ 2,5 tỷ, Ngân hàng Phát triển Á châu 1,5 tỷ. Riêng nước Nhật đã cam kết tài trợ 1. 64 tỷ và Âu Châu 1.08 tỷ. Trên lý thuyết, mục đích của số tiền tài trợ năm nay là dùng vào việc phục hồi và phát triển nề kinh tế Việt Nam vốn đã từng suy thoái nhiều năm với chính sách bè phái, bóc lột và tham nhũng của chế độ CSVN. Điều đáng chú ý ở đây là tất cả các nước tài trợ đều biết tham nhũng tại Việt Nam dưới chế độ CS được coi như là quốc sách và mức độ tăng trưởng của nó càng ngày càng cao. Nhưng họ vẫn cam kết tài trợ và cũng tỏ ra rất “tha thiết”, mong mỏi có một nước Việt Nam tiến bộ với đầy đủ tự do, dân chủ và nhân quyền như quốc gia của họ. Tuy nhiên, những nhận định và sự “tha thiết” ấy hầu như chỉ là những lời nói xuông, họ nói lên những hiện tượng hiển nhiên mà ai cũng biết, nhưng lại không thấy điều kiện nào được chính thức đặt ra, hầu có thể dùng làm áp lực, buộc CSVN phải thực hiện phần nào để có thể thực hiện những “tha thiết” của họ. Như vậy, phải chăng đây chỉ là một loại xáo ngữ, dùng vấn đề tự do, dân chủ của người dân Việt Nam như một loại trang trí trong bang giao, hay tô điểm thêm cho cái bình phong, dùng che đậy những quyền lợi tiềm ẩn bên trong. Vỉ vậy, chẳng có gì có thể gọi là ánh sáng niềm tin hay hy vọng cho đất nước.

Nhận định về việc chống tham nhũng tại VN, trong một đoạn phỏng vấn của RFA, ông Rolf Bergman, Đại sứ Thụy Điển nhận định: 
" Trong cuộc chiến chống tham nhũng, để đạt được thành công cần có sự nỗ lực của tất cả mọi người dân. Chỉ có những luật lệ và quy định tốt là chưa đủ, muốn thành công cần phải có sự kết hợp tham gia của Đảng, Chính phủ, xã hội dân sự, các cơ quan báo chí và từng người dân trong xã hội.".
 Với nhận định này, không ai phủ nhận đây là vấn đề then chốt rất tốt đẹp, nhưng chỉ mang tính lý thuyết, còn lại thực tế không bao giờ có thể thực hiện. Một guồng máy mà tất cả sinh hoạt xã hội đều nằm trong tay đảng, đảng kiểm soát mọi mặt kể cả hệ thống tư duy của từng người dân, thì thử hỏi làm sao có thể tìm được “sự nỗ lực của tất cả mọi người dân” hay “sự kết hợp tham gia ... của xã hội dân sự, các cơ quan báo chí và từng người dân trong xã hội." như ông Rolf Bergman nhận định. Có chăng chỉ nói để mà nói cho vui như những câu chuyện huyền thoại trong dân gian.

Nói đến hệ thống tham nhũng của CSVN, hầu như ai cũng biết nó không khác nào một loại bệnh ung thư đã đến thời gian hết thuốc chữa. Nếu nhìn kỹ vào bối cảnh của đất nước, có lẽ không ai có thể phủ nhận những kẻ đang hô hào chống tham nhũng lại là những thủ phạm chính hay nói đúng hơn là những “đại gia” đã tạo ra và nuôi dưỡng mạng lưới tham nhũng. Hơn nữa, chính họ là những kẻ đang nắm quyền sinh sát, thao túng đất nước từ những vai trò Chủ tịch nước, Tổng bí thư , Thủ tướng và những nhân vật then chốt trong bộ chính trị trung ương đảng. Từ đó, tham nhũng tại Việt Nam hiện tại chẳng khác nào một mạng lưới được đan bằng một chất liệu rất bền chặt từ trung ương đến địa phương. Tất cả những chương trình hay biện pháp chống tham nhũng được đưa ra, chẳng qua chỉ là những trái khói mù bịp bợm. Vì vậy, những nhận định của các nhà tài trợ cho VN cũng chỉ có thể tạo một lớp sơn, vẽ vời sự hợp lý trong bang giao hầu che phủ những quyền lợi của họ, nó không có gì để có thể cho rằng là những dấu hiệu ánh sáng tự do, nhân quyền đang ló dạng trên đất nước Việt Nam.

Xoay quanh sự kiện, các nước tài trợ cho Việt Nam hầu như cũng tỏ ra quan tâm nhiều đến lãnh vực thông tin và họ cho rằng một hệ thống thông tin tự do sẽ đưa đất nước đến sự ổn định và phát triển. Trong lãnh vực này, ông Michael Michalak, Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam nhận định “tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội đòi hỏi môi trường lành mạnh, minh bạch cho tất cả các bên...” Trong khi đó ông Rolf Bergman, Đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam cũng cho biết có yêu cầu chính phủ Việt Nam bãi bỏ mọi hạn chế đối với lãnh vực Internet. Đồng thời ông Rolf Bergman cũng cho biết  
“Chúng tôi nhấn mạnh rằng báo chí cũng như các trang mạng xã hội giữ vai trò hết sức trọng yếu trong việc nối kết thông tin, để dẫn đến thành quả, chứ không tác hại gì đến các kế hoạch của chính phủ. Chúng tôi thật sự quan ngại khi nhận được tin chính phủ kiểm soát trang xã hội Facebook vì làm như thế là cản trở sự phát triển chứ không thể gặt hái kết quả tốt được.... Các nước có mặt trong hội nghị như Hoa Kỳ, Canada, Na Uy, New Zealand cũng như các nước châu Âu khác đều có chung những quan ngại như của chúng tôi...”.

Tuy nhiên, đã trải qua nhiều năm, biết bao nhiêu nhận định, đề nghị, khuyến cáo của các nước có sự tài trợ và bang giao với CSVN, nhưng khi nhìn lại xã hội và đất nước Việt Nam hiện nay thì hầu như không ai thấy được một dấu hiệu nào chứng tỏ khá hơn mà ngược lại có chiều hướng tệ hơn rất nhiều, và trong những ngày tháng gần đây, mức độ đàn áp, trù dập đã gia tăng đến độ khối truyền thông nói riêng và toàn dân tại quốc nội nói chung, hầu như càng ngày càng tỏ ra “ngoan ngoãn”, luôn luôn “nhất quán” với đường lối của đảng đưa ra, kể cả những vấn đề quan trọng liên quan đến sự tồn vong của đất nước như sự kiện Boxite tại Tây Nguyên hay chủ quyền về lãnh thổ, lãnh hải đã và đang bị mất dần trong tay Tầu cộng.

Với những diễn biến nêu trên đại đa số nhận định, nếu các nước tài trợ thực sự quan tâm đến tự do, dân chủ và nhân quyền của Việt Nam, tất nhiên họ không thể chỉ đưa ra những nhận định hay khuyến cáo xuông. Đối với một tập đoàn lưu manh, thủ đoạn như CSVN mà chỉ nói xuông rồi đổ tiền vào một cách vô tội vạ thì chỉ tạo cơ hội cho tập đoàn CSVN có cơ hội, nhảy muá, sơn phết những tấm bình phong tuyệt đẹp để bên trong tiếp tục, chia chác, bóc lột xương máu của người dân và bán rẻ giang sơn với câu “Nối giáo cho giặc” mà người Việt Nam thường dùng. Tất cả những khẩu hiệu, vẽ vời hình thức của CSVN thực sự chẳng che mắt được ai, ngoài sự đồng lõa tung hứng cho quyền lợi. Để cuối cùng “mười voi vẫn không được một bát nước xáo”, chẳng có gì thay đổi để có thể thấy được những điều mà toàn dân VN đang mơ ước. Điều này cũng đã được ông Rolf Bergman xác nhận:
“Chúng tôi hy vọng sẽ thấy nhiều hơn nữa những tiến bộ trong lĩnh vực này nhưng phải thật lòng mà nói chúng tôi chưa thấy chính phủ có phản hồi tích cực trong vấn đề này và vì vậy chúng tôi cảm thấy hơi thất vọng...”. 

Để làm sáng tỏ hơn về bản chất CSVN, đi ngược dòng lịch sử từ năm 1945, sau khi CSVN cướp được chính quyền đến nay, đã có biết bao nhiêu khẩu hiệu cải tổ, kêu gọi diệt trừ tham nhũng, tôn trọng tự do thông tin, tự do ngôn luận của người dân... Nhưng kết quả ra sao chắc ai cũng biết. Tất cả hình ảnh những tù nhân lương tâm hay chính trị còn nằm nơi nhà lao trong hiện tại cũng đủ chứng minh rõ ràng cái “thiện chí” cải tổ của hệ thống CSVN từ hơn nửa thế kỷ qua. Ngoài ra, mới đây cái Nghị Định 97/2008/NĐ-CP- do Nguyễn Tấn Dũng ban hành cũng là một bằng chứng xác định cái “thiện chí” ấy một cách rất hùng hồn và minh bạch. Một nghị định phản dân chủ, đi ngược lại Công ước Quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1982 mà CSVN đã tham gia ký tên. Đồng thời cái nghị định 97 này cũng đang phỉ nhổ vào cái đống giấy lộn được gọi là Hiến pháp nhà nước CSVN với điều 69. Như vậy, cái ánh sáng tự do nhân quyền mà một số người đã nhận định đang nằm ở đâu??? Và những nhận định của các nước tài trợ sẽ có ảnh hưởng gì đến tự do, dân chủ và nhân quyền cho đất nước Việt Nam hay không, một khi không có những điều kiện đi kèm và người dân Việt Nam vẫn chưa thể tỉnh táo dứng dậy đòi lại.

• Phạm Thanh Phương (Úc Châu)


Phạm Thanh Phương (Úc Châu)

Trong mấy tuần lễ gần đây, dư luận bàn tán khá xôn xao về hiện tượng Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nhà nước CSVN yết kiến Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 tại Vatican từ ngày 09 đến ngày 12-12-2009 vừà qua.Với sự kiện này, một số người cho rằng Triết sang Vatican để “cầu hoà”, xin lỗi về những xung đột với Giáo hội Công giáo Việt Nam về vấn để tài sản, đất đai như sự việc Tòa Khâm Sứ ở Hà Nội; Thánh địa La Vang; Giáo Hoàng Học Viện ở Đà Lạt; Dòng Thánh Giuse, Nha Trang; Giáo xứ Thái Hà; Nhà thờ Tam Tòa ở Quảng Bình,Tu viện thánh Phaolô ở Vĩnh Long ,v,v... Ngược lại, đại đa số lại nhìn đây chỉ là dấu hiệu của những thỏa thuận, tương nhượng từ một số quyền lợi tương quan song phương giữa hai quốc gia, mặc dù không có bất cứ một sự tiết lộ nào từ cả hai bên.

Nhận định về sự kiện, phía CSVN ông Nguyễn Hồng Dương, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo tại Hà Nội cho biết  
“Tôi nghĩ mối quan hệ đó đang trong lộ trình. Sau khi Thủ tướng Việt Nam đến Vatican thì nay chuyến đi của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đến gặp Giáo hoàng thì hai phía đang trong lộ trình thiết lập quan hệ đầy đủ giữa Vatican và Việt Nam”.
Trong khi đó, Gs Nguyễn Đăng Chúc thuộc Phân khoa Thần học, Đại học Strasbourg, Pháp hầu như cũng đồng quan điểm với ông Dương trong nhận định:
“Chắn chắn có thiện chí từ phía hai bên, dù cả hai bên không ai tiết lộ, đến bây giờ cũng chưa có những gì cụ thể cả.” 
Từ những nhận định trên, một số người tỏ ra rất phẩn khởi cho rằng, dù sao Vatican cũng là một Trung tâm quyền lực có ảnh hưởng rất nhiều trên toàn thế giới, và dù ít hay nhiều CSVN cũng không nằm ngoài quỹ đạo. Như vậy, họ cho rằng hai chữ “thiện chí” cuả Gs Chúc ở đây mang ý nghĩa CSVN sẽ phải nhân nhượng bày tỏ thiện chí bằng cách trả lại một số tài sản của Giáo hội Công giáo Việt Nam đã bị CSVN cướp đi từ nhiều năm qua, ít nhất là những vụ việc gần nhất. Tuy nhiên, cũng nhiều nguồn dư luận lại cho rằng thế giới ngày nay đã khác xưa, ảnh hưởng của giáo quyền cũng không còn tồn tại, do đó ảnh hưởng của Vatican chỉ có thể đứng trên giá trị tinh thần tại một số quốc gia có nhiều tín đồ Công giáo, lãnh đạo của họ biết tôn trọng đạo đức và lẽ phải. Ngược lại CSVN là một loại phi nhân tính, cộng thêm chủ nghĩa tam vô. Do đó, CSVN sẽ không bao giờ bị chi phối bởi ảnh hưởng giá trị đạo đức và tâm linh. Có chăng là những giá trị kinh tế và chính trị khi có lợi cho họ. Hơn nữa, theo chủ trương của Vatican cũng chỉ muốn cố gắng thực hiện một sự "hợp tác lành mạnh" tìm một sự "sống chung hoà bình giữa Giáo hội và cộng đồng Chính trị" CSVN, hầu có thể tạo nên một "xã hội công bằng". Ngoài ra Vatican cũng không chủ trương đối kháng với CSVN và cũng "không chủ trương tìm cách thay thế những người có trách nhiệm lãnh đạo đất nước và chỉ mong muốn trên một tinh thần đối thoại, hợp tác và tôn trọng lẫn nhau để thực hiện vai trò của mình nhằm phục vụ mọi tầng lớp người dân..." như lời Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 đã tuyên bố trong lần gặp phái đoàn Công giáo tại Vatican cách đây không lâu. Do đó, hai chữ “thiện chí” cuả Gs Chúc ở đây chắc chắn phải được áp dụng cho cả hai bên trong tinh thần “Dĩ hoà vi qúy”, để có thể tiến đến một hệ thống bang giao trong hài hoà. Như vậy, trong cái “Dĩ Hoà Vi Qúy" ấy, chắc chắn hai bên sẽ phải thông qua một số khúc mắc, không thể làm khó nhau và chuyện trả lại tài sản cho Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng rất khó có thể xẩy ra.

Nói về việc CSVN trả lại tài sản cho giáo hội Công giáo Việt Nam, thiết nghĩ nên đi trở ngược dòng lịch sử từ khi CSVN xuất hiện trên đất nước đến nay, có bao giờ CSVN có “thiện chí” ăn năn, hối lỗi, trả lại cho khổ chủ những gì họ đã cướp hay không, ngoại trừ lấy lại từ sức mạnh của vũ lực, nếu có. Do đó, muốn lấy lại được những gì đã mất, người Công giáo Việt Nam không thể tin tưởng vào những thoả hiệp hay tương nhượng từ Vatican trong lãnh vực bang giao với CSVN. Ngược lại phải đoàn kết tập trung sức mạnh đấu tranh, lúc đó mới có thể đạt được kết qủa như mong muốn. Tuy nhiên, dù sao chăng nữa dư luận cũng hy vọng Vatican không vì quyền lợi riêng của Toà Thánh mà quên đi sự đau khổ của toàn dân Viện Nam nói chung và Giáo hội Công giáo tại Việt Nam nói riêng như lời Lm Trần Công Nghị đã nhận định:
“Giáo Hội lo phần linh hồn, Giáo Hội lo cho sự tốt đẹp của một giáo hội khác, không thể Giáo Hội Vatican đi trên đầu trên cổ Giáo Hội Việt Nam đang khi người Việt Nam ở khắp nơi đều mong muốn một giáo hội có sự yên bình"...

Nói về sự yên bình trong một cộng đồng, có lẽ không ai có thể phủ nhận điều kiện tiên quyết là hoà giải những tị hiềm, hận thù, và hoà hợp trong tình yêu nhân bản. Tuy nhiên, hoà giải như thế nào mới là một điều đáng quan tâm, hoà giải không có nghĩa là phải khuất phục để trở thành một thứ nô lệ hay tay sai như lời Lm Nguyễn Văn Khải đã xác định:
"Chúng tôi được mời gọi để hòa giải chứ không phải để khuất phục trước các thế lực, sự dữ, trước các bất công, trước việc cá lớn nuốt cá bé, hình thức lấy thịt đè người. Cái đó tùy thuộc vào thái độ của chính quyền đối với chúng tôi. Vấn đề là chính quyền có tôn trọng công lý và sự thật hay không. Chính quyền có tôn trọng tự do tôn giáo hay không. Chính quyền có tôn trọng quyền lợi của cộng đồng linh mục tu sĩ và giáo dân Thái hà hay không. Tùy thuộc vào thái độ ứng xử của chính quyền mà chúng tôi phải biết đáp lại thế nào cho đúng, đúng với tư cách là một công dân và tín hữu Công giáo.".
 Cùng một quan điển với Lm Khải, trong đêm khái mạc lễ Năm Thánh, Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh đã xác định trong bài giảng "... Đã đến lúc người Việt Nam phải thẳng thắn nhìn nhận rằng chúng ta đã làm khổ nhau quá nhiều vì bảo thủ chính kiến và thành kiến, vì độc tôn phe nhóm và quyền lợi”. Như vậy, thiết nghĩ muốn có một sự “sống chung hoà bình” để tạo “một xã hội công bằng”, đương nhiên người Việt Nam nói chung và người Công giáo nói riêng phải có một sự đoàn kết vững mạnh trong đấu tranh, tận diệt những “bảo thủ chính kiến và thành kiến, vì độc tôn phe nhóm và quyền lợi”... Không thể chỉ dựa “trên một tinh thần đối thoại, hợp tác và tôn trọng lẫn nhau” như Đức Giáo Hoàng Benedicto 16 đã mong ước. Bởi lẽ CSVN không phải là một loại còn nhân tính và tâm linh, họ không bao giờ có được cái “thiện chí” biết lắng nghe, để có thể thấu hiểu được sự hơn thiệt của Tổ quốc và dân tộc. Ngược lại, họ là những kẻ mang dòng máu lạnh, chỉ biết dùng thủ đoạn gây tang thương, máu lửa, cướp bóc, lọc lừa. Vì vậy, tin vào “thiện chí” của CSVN coi như tự sát, để muôn đời sẽ luẩn quẩn mãi trong cái màn đêm đau khổ tận cùng của nhân loại.

Tóm lại, việc Nguyễn Tấn Dũng hay Nguyễn Minh Triết có sang yết kiến, bàn bạc, tương nhượng hay thoả hiệp gì với Vatican chăng nữa, thì bổn phận của người dân Việt nam nói chung và khối Công giáo Việt Nam nói riêng vẫn phải giữ vững niềm tin, đoàn kết gây sức mạnh, tiếp tục công cuộc đấu tranh đòi công lý, sự thật. Đòi lại tự do, dân chủ và quyền tự quyết của dân tộc. Riêng hàng giáo phẩm "Giáo Hội cũng luôn luôn kêu gọi rằng Giám mục là một vị mục tử luôn luôn phải nói tiếng nói của công lý, của chân chính, của sự thật, mà ví dụ phải chết chăng nữa để nói sự thật...". Vì thế nếu các Giám mục, Linh muc Việt Nam triệt để thi hành chức năng của mình, can đảm đặt quyền lợi tổ quốc, dân tộc lên trên quyền lợi của Tôn giáo và giáo quyền như Đức Giáo Hoàng Jean Pau lI đã thực hiện đối với tổ quốc và dân tộc Balan của ngài. Nếu được như thế, thiết nghĩ Giáo hội Công giáo Việt Nam sẽ là một yếu tố quan trọng dùng vực dậy sức mạnh truyền thống của dân tộc, để cùng đứng lên tận diệt những “phe nhóm độc tôn”, tận diệt những độc ác, những thủ đoạn gian manh lừa bịp của CSVN, đòi lại tự do, dân chủ cho, nhân quyền đất nước. Đồng thời, với sức mạnh ấy cũng có thể tẩy rửa được cả những uất nhục của non sông do đảng CSVN gây ra. Chỉ khi nào dân tộc có được tự do và quyền tự quyết, lúc đó mới có thể tìm được một đòi sống an bình thực sự trong tương kính giữa tình người với nhau. Ngược lại, một khi chế độ dã man tàn bạo CSVN còn ngự trị trên quê hương, dân tộc Việt Nam sẽ tiếp tục còn đau khổ, Tổ quốc sẽ còn nhiều nỗi đắng cay, uất nhục, và Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng không thể nằm ngoài qũy đạo.

• Phạm Thanh Phương (Úc Châu)

Kể từ ngày 09-11-2009, khi Âu Châu bắt đầu kỷ niệm 20 năm “Bức Tường Ô Nhục” tại Đức sụp đổ. Từ đó đã kéo theo các chế độ CS khác tại Đông Âu hàng loạt rủ nhau cáo chung. Nói đến sự cáo chung của các chế độ CS tại Đông Âu có lẽ ai cũng hiểu, cái xác thối XHCN đã được những dân tộc Đông Âu nói chung và dân tộc Đức nói riêng dùng ánh sáng văn minh của nhân bản để đào sâu, chôn chặt trong tận cùng của lịch sử nhân loại. Vì vậy, trong dịp kỷ niệm này, dư luận trên toàn thế giới đã bày tỏ một sự quan tâm đặc biệt, và những người dân Việt Nam chân chính lại càng tỏ ra quan tâm hơn. Thiết nghĩ, những ngưuời Việt Nam chân chính, khi nhìn lại sự kiện thống nhất của nước Đức cách đây 20 năm, có lẽ không mấy ai thoát khỏi sự chạnh lòng, ngậm ngùi, xót xa cho dân tộc mình, ngoại trừ bọn tội đồ CSVN và những kẻ đã vì một lý do nào đó nhân tính của họ đã bị khánh kiệt

Nói về sự  thống nhất của nước Đức cách đây 20 năm, không ai có thể phủ nhận là một cuộc giải phóng dân tộc đúng nghĩa, đưa đến một niềm an vui, ấm no trong hoà bình. Toàn  thể người dân Đức hai miền Đông - Tây đã cùng nhau nô nức reo hò theo từng nhát búa mang nặng tình nhân loại, nghĩa chủng tộc, hoà chung với những dòng nước mắt hạnh phúc của bao nhiêu năm trời cách biệt, chờ đợi trong đau xót, buồn tủi chỉ vì một chủ thuyết huyền hoặc không tưởng CS. 

Nói đến sự sụp đổ cuả ”Bức Tường Ô Nhục”, nhiều người cho rằng, yếu tố then chốt quan trọng hàng đầu là do sự ảnh hưởng của cố Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Regan và cố Đức Giáo Hoàng John Paul II. Nhưng một số nhận định khác cho rằng, mặc dù không ai phủ nhận của cố Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Regan và cố Đức Giáo Hoàng John Paul II là hai nhân vật có sự ảnh hưởng sâu đậm trong việc thống nhất nước Đức. Tuy nhiên, nếu người dân Đức không có những nỗ lực từ nhiều năm và những nhà lãnh đạo Đức đã bị thối rữa lương tri như CSVN, thì chắc chắn sự thống nhất này không thể xẩy ra để giải phóng con người trở về đúng nghĩa của nhân bản... 

Tưởng nhớ cuộc thống nhất của nước Đức, đại đa số người Việt Nam có lẽ không mấy ai không chạnh lòng nghĩ đến sự thống nhất của Việt Nam vào năm 1975. Tuy hình thức cũng là một sự thống nhất, nhưng nước Đức đã thống nhất bằng tình tự dân tộc và nhân bản, giải phóng con người từ bóng tối lạc hậu, máu lửa, hận thù ra ánh sáng tự do và văn minh của hạnh phúc. Ngược lại, cuộc thống nhất của Việt Nam năm 1975 đã được xây dựng bằng máu lửa, hận thù, khủng bố, chết chóc và tù tội. Cũng từ sự thống nhất quái đản này đã đưa đến uất nhục, sầu hận cho cả một dân tộc. Và cũng kể từ giây phút thống nhất ấy, biết bao nhiêu linh hồn đã phải tức tưởi ra đi nơi các trại tập trung nơi rừng thiêng nước độc, hay trong rừng sâu, trên đại dương của  những đoạn đường di tản, vượt biên, vượt biển để tự giải thoát cho chính bản thân và gia đình... 

Sau 20 năm thống nhất, toàn thể người dân Đức ăn mừng tưởng nhớ cái ngày bắt đầu của ánh sáng và niềm tin, tình yêu và hy vọng, họ được cả thế giới ngưỡng mộ, nô nức chia sẻ. Ngược lại, mỗi lần người dân Việt Nam nhắc tới ngày thống nhất 30 -4-1975, đều ngậm ngùi xót xa cho kiếp người với uất nhục của tổ quốc, và mơ ước một ngày “Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời” của quê hương...
 

Cũng trong sự kiện này, đại đa số người dân Việt Nam nhận định, “Bức Tường Ô Nhục” của nước Đức được xây bằng những viên đá rất kiên cố, nhưng đã được san bằng cách đây 20 năm trong tình yêu nhân bản. Ngược lại cách đây 34 năm, Việt Nam thống nhất để dựng nên một “Bức Tường Ô Nhục” ngay trong lòng dân tộc mà chỉ có người dân Việt Nam có thể nhìn thấy rõ nhất nó là biểu tượng cho cái ô nhục trên tất cả các loại ô nhục trên thế gian. “Bức tường Ô Nhục” của Việt Nam không đuợc xây bằng những viên đá kiên cố như nước Đức, nhưng nó đã được xây bằng sự ngu xuẩn, vong tình, bội nghĩa của những con người đã khánh kiệt nhân tâm và thối rữa tâm hồn như CSVN. Chính vì thế mà đất nước Việt Nam ngày nay không khác nào một đống rác bầy hầy của thế kỷ. Sự thống nhất cuả CSVN đã không mang lại hạnh phúc, ấm no cho người dân mà ngược lại chỉ đem đến những đau khổ, uất nhục. Chính sự thống nhất này là cơ hội để CSVN đưa toàn thể người dân Việt Nam đi vào một nhà tù vĩ đại không cửa sổ, tạo ra một tổ quốc lở loang, có nguy cơ mất dần trong tay Tầu cộng. 

Để chia sẽ sự thống nhất hạnh phúc của dân Đức, từ giáo xứ Thái Hà, Lm mục Nguyễn Ngọc Nam Phong bày tỏ:
"Chúng tôi chia xẻ với người dân Đông Âu, nói chung là người dân Đức đã phá đổ được một bức tường ngăn cách mà do cái chủ nghĩa vô thần đó nó tạo nên."
Và để nói lên sự mơ uớc chung của cả một dân tộc đang đắm chìm trong đau khổ, nhục nhã của thế kỷ hôm nay, Lm Phong chia sẻ: 
"Là người dân trong một đất nước đang ở trong một chế độ kiềm kẹp thì không chỉ chúng tôi mà tất cả mọi người đều mong ước được giải thoát một cách nào đó để con người được hưởng trọn vẹn cái quyền mà Thượng Đế đã ban tặng cho mỗi con người, như là quyền sống, quyền tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do diễn tả những cảm nghĩ, những suy nghĩ của bản thân mình. Tiếc rằng là ở Việt Nam thì cho đến bây giờ những quyền lợi đó nó cũng chưa có."... 
Tuy nhiên, mơ ước vẫn chỉ là mơ ước, khát khao, nếu những người mơ ước không có những nỗ lực tạo nên nó. 

Sự hạnh phúc của người dân Đông Âu nói chung và dân Đức nói riêng có được hôm nay, không phải là ngẫu nhiên từ trời cao rơi xuống hay từ một thế lực nào ban phát cho họ, mà họ đã lấy về từ chính trái tim, khối óc, máu và nước mắt của họ. Từ đó, họ đã kết hợp được lòng người thành sức mạnh và cũng là chất liệu thức ngộ được những con người lãnh đạo đã một thời sắt máu, lầm lũi trong u tối. 

Để chứng minh cho điều này, đi ngược dòng tất nhiên sẽ thấy được sau Đệ nhị Thế chiến 1945, biên giới Đông-Tây nước Đức được phân định cũng giống như  bối cảnh của Việt Nam sau năm 1954. Họ cũng có những đắng cay cực nhục, họ cũng có những làn sóng tỵ nạn CS như Việt nam chúng ta, nhưng họ khác chúng ta là sự ý thức đấu tranh một cách can đảm và mạnh dạn hơn. Điển hình một số phong trào tiêu biểu tại các quốc gia Đông Âu như  Ba Lan, Hungary và Tiệp Khắc, nhưng những cuộc nổi dậy này đều bị đàn áp đẫm máu như cuộc nổi dậy của thợ thuyền tại cảng Poznan, Ba Lan năm 1956, cuộc cách mạng mùa thu Budapest 1956, và cuộc cách mạng mùa xuân thành Praha 1968..v..v Tất cả đã là những chất liệu đưa đến hạnh phúc của hôm nay.

Tóm lại, Trông người mà nghĩ đến ta, người dân Việt Nam chúng ta cũng không thể ngồi mơ ước xuông. Ngược lại, muốn có được một ngày hạnh phúc như Đông Âu nói chung và nước Đức nói riêng, người dân Việt Nam cần phải vứt bỏ những vị kỷ thấp hèn của hạ ngã, quan tâm trong mọi lãnh vực của đất nước, phát huy triệt để tinh thần “Uy vũ bất năng khuất” truyền thống của lịch sử, hầu có thể tạo được một sức mạnh đoàn kết. Lúc đó mới mong thực hiện được những khao khát của ước mơ. Riêng khối người Việt tỵ nạn CS tại hải ngoại cũng nên ”ép mình”, xóa bỏ những tị hiềm vô bổ để đi về một niềm tin chung, một ý chí chung. Đồng thời cảnh giác vạch mặt, tẩy chay những thần phần “thối rữa lương tri và khánh kiệt tâm hồn” đang chui luồn phá hoại trong các cơ chế hội đoàn, đoàn thể và các tổ chức Cộng Đồng. Những chiêu bài nối kết giao lưu với CSVN để cùng canh tân đất nước, hầu cảm hoá bọn tội đồ CSVN chỉ là những chiếc bánh vẽ lừa bịp, bởi lẽ Việt Nam không phải là Đông Âu. Được như vậy thì chắc chăn ngày hạnh phúc đất nước sẽ không còn xa.
·         Phạm Thanh Phương


Phạm Thanh Phương 

Trong những năm gần  đây, biển Đông là một vấn đề nóng bỏng và nhức nhối cho toàn thể dư luận trong và ngoài nước. Tất cả những sự kiện xẩy ra trên biển đông, không phải là những xung đột bình thường, mà nó chính là một vấn nạn của đất nước, nó liên quan đến mạng sống của người dân, sự tồn vong của đất nước và cũng là mối nhục quốc thể chưa từng xẩy ra trên dòng lịch sử với hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Riêng đối với tập đoàn lãnh đạo CSVN, thì hầu như không có gì xảy ra, dân chết mặc dân, ai cảm thấy nhục cứ tự nhiên mà nhục một cách “vô tư”. Còn lãnh đạo đảng thì vẫn lần lượt dắt nhau sang Bắc Kinh để tung hô “mười sáu chữ vàng” một cách máy móc, trơ trẽn như những con rối của Trung cộng. Tuy nhiên, trong trận bão số 9 vừa qua, sự kiện 17 chiếc tầu và 200 ngư dân bị Hải quân Trung cộng đánh đập, cước bóc một cách trắng trợn trong quần đảo Hoàng Sa đã tạo ra một sức ép khá mạnh mẽ từ các nguồn dư luận. Cũng từ sức ép này, có lẽ đảng và nhà nước CSVN cảm thấy không thể im lặng mãi, nên đành bật đèn xanh cho Quốc Hội lên tiếng cho có vẻ quan tâm, mong rằng có thể trấn an dư luận được phần nào của hiện tại.  
Xoay quanh sự kiện RFA đưa tin, nhân phiên họp Quốc hội CSVN tuần qua, ông Lê Quang Bình, chủ nhiệm “Uỷ Ban Quốc Phòng-An ninh Quốc Hội” có đưa ra đề nghị thành lập “Đội dân quân bảo vệ biển”. Theo ông Bình, “với Luật dân quân tự vệ, Việt Nam sẽ phát triển tốt hơn lực lượng dân quân, tự vệ biển, làm nòng cốt bảo vệ người dân trên biển cũng như giúp họ xác định tốt hơn đâu là vùng biển của Việt nam, đâu là vùng biển của nước ngoài”. Cũng theo đề nghị này, ngư dân Việt Nam sẽ được trang bị vũ khí và một số trang thiết bị để có thể xác định vị trí trên biển, tránh tình trạng đi lạc vào hải phận của các quốc gia khác. Đồng thời họ có thể tự bảo vệ khi bịp cướp...v..v 
Trước đề nghị  quái đản này, đại đa số ngư dân và dư luận nhận định, nếu ông Bình cho rằng trang bị vũ khí để ngư dân có thể tự vệ là một điều quá ngu xuẩn, điều này đã không giúp được gì mà còn đưa ngư dân đi vào chỗ chết. Bởi lẽ ai cũng hiểu, những sự kiện ngư dân Việt Nam phải đối diện trên biển đông không phải là những bọn cướp vặt, mà là một lực lượng Hải quân được trang bị đầy đủ vũ khí tối tân của một trong những cường quốc hiện tại trên thế giới là Trung cộng. Hơn nữa, một khi ngư dân được trang bị vũ khí, tất nhiên sẽ bị Trung cộng liệt kê họ vào loại cướp biển, để có thể ra tay cước bóc, tàn sát một cách danh chính, ngôn thuận như hiện tượng 9 ngư dân Thanh Hoá trước đây.  
Một điều khôi hài là khi đưa ra đề nghị này, chính ông Bình cũng thừa nhận trong quá khứ CSVN cũng đã từng võ trang hoá một số tập đoàn đánh cá quốc doanh, và khi tàu ngư dân Việt Nam “lạc” vào vùng biển nước ngoài, họ đều bị quy là cướp biển. Tuy biết thế, nhưng ông Bình vẫn đưa ra đề nghị và cố ngụy biện rằng, nhà nước CSVN sẽ cấp giấy phép giữ vũ khí cho ngư dân để tránh sự “ngộ nhận” như đã từng xẩy ra. Một câu hỏi được đặt ra ở đây, là một khi Hải quân Trung cộng đã cố ý cướp, thì họ có cần hỏi giấy phép giữ vũ khí không ? Và những tờ giấy ấy nhà nước CSVN cấp sẽ có giá trị gì? Hay cũng chỉ là những miếng giấy lộn không hơn, không kém đối với Trung cộng.
Cũng trong sự kiện này, về phía ông Bình thì cho rằng đây là một thượng sách có “Nhất Cử Lưỡng Tiện”, dùng để trấn an ngư dân, và cũng để chứng tỏ rằng đảng, nhà nước cũng quan tâm thương dân như đã rêu rao. Đồng thời dùng ngư dân như những tấm bia đỡ đạn, thay thế cho Hải quân CSVN trong việc canh giữ vùng biển một cách “tế nhị” không làm mất lòng đàn anh Trung cộng. Tuy thế, nhưng dựa trên thực tế, ngư dân Việt Nam cũng nhìn ra sự bịp bợm tai hại này một cách rõ rệt, họ chẳng bao giờ dại dột chấp nhận. Ngược lại, họ đòi hỏi đảng và nhà nước phải có trách nhiệm gửi “Cảnh sát biến” hoặc Hải quân ra giữ an ninh cho họ.
Cũng theo RFA, trong một đoạn đoạn phỏng vấn, một ngư dân đã từng bị cướp, đánh đập cho biết  "Nói chung bây giờ họ giao súng, em cũng không dám đâu, tàu của họ có súng hai nòng lớn lắm nếu có gì thì họ bắn chết."... Một câu hỏi khác được đại đa số đặt ra ở đây là, tại sao đảng và nhà nước cứ phải loanh quanh, khôi hài như thế này, một chủ nhiệm “Uỷ Ban Quốc Phòng-An ninh Quốc Hội” như ông Bình mà chẳng lẽ không hiểu được nhiêm vụ của lực lượng quân đội là bảo vệ đất nước và người dân hay sao? Lực lượng Hải quân của CSVN dùng để làm gì mà không dám bảo vệ dân? Một nhà nước của “nhân dân”, lúc nào cũng rêu rao, gào thét vì dân, thương dân, yêu dân như “Bác Hồ yêu các cháu nhi đồng”. Một “Quân Đội Nhân Dân Anh Hùng”, đã từng hãnh diện với ba chiến thắng vĩ đại là thắng ba đế quốc “Nhật-Pháp- 
Mỹ”, nhưng bây giờ chẳng hiểu cái “Anh hùng” đã trốn đi đâu mất rồi? Mà ngày nay chỉ toàn thấy một đám “ăn hại đái nát” tham nhũng bóc lột dân, và đưa dân vào chỗ chết một cách rất đểu cáng như đề nghị của chủ nhiệm “Uỷ Ban Quốc Phòng-An ninh Quốc Hội” vừa qua.  

Nói riêng về chức năng và nhiệm vụ của quân đội, thêm một câu hỏi khác nữa được đưa ra ở đây là, nhiệm vụ của Hải quân CSVN là cái gì, chẳng lẽ cả một lực lượng Hải quân mà chỉ để dùng chuyển tải hàng lậu, chuyên chở tài nguyên quốc gia đi bán cho ngoại bang hay sao ? Hay Hải quân của CSVN là một lực lược trừ bị, chỉ thi hành chức năng khi có lệnh của Trung cộng kêu gọi như hiện tượng bốn chiến hạm đã “Hồ hởi, phấn khởi” tìm kiếm hai ngư thuyền và 13 ngư dân của Trung cộng bị mất tích trong vùng đảo Bạch Long Vĩ vừa qua. Như vậy, lực lượng Hải quân CSVN dùng để bảo vệ cho ai, bảo vệ tổ quốc nào, có lẽ ai cũng biết, nhưng chắc chắn không phải Tổ quốc và dân tộc Việt Nam. 
Trước những thực tế phũ phàng, nhưng vấn đề được toàn dân đau khổ quan tâm hiện nay, không phải đơn thuần chỉ là những hiện tượng ngư dân bị Hải quân Trung cộng bắt bớ, đánh đập, cướp bóc. Mà vấn đề tối quan trọng vẫn là giang sơn và quốc thể, một khi giang sơn và quốc thể được bảo toàn, thì chắc chắn những sự kiện bắt bớ, đánh đập cướp bóc của Hải quân Trung cộng đối với ngư dân Việt Nam trên biển đông sẽ tự động được chấm dứt. Điều đáng nói là những sự kiện Trung cộng chiếm đóng Hoàng Sa, lấn áp Trường Sa, vẽ lại bản đồ, khoanh vùng biển hình lưỡi bò gần như nuốt trọn một vùng lãnh hải của Việt Nam. Nhưng tập đoàn lãnh đạo CSVN vẫn gục đầu “án binh bất động”, coi như không có gì xẩy ra, thậm chí còn cố gắng dùng mọi thủ đoạn, bạo lực để bịt miệng người dân khi họ bày tỏ những nỗi sót xa, uất nhục từ những tấm lòng yêu nước. Như vậy, những gì ông Bình đề nghị có phải là một trò hề hay không? Có lẽ ai cũng biết.  
Tóm lại trước hiện tình đất nước, tất cả những ai còn có lòng với tiền đồ cuả dân tộc, biết đau cái  đau của dân, biết nhục cái nhục của nước, thiết nghĩ chúng ta nên mạnh dạn trong mọi lãnh vực có thể trong khả năng. Sáng suốt nhận định và cảnh giác trước những “viên thuốc độc bọc đường” của Việt gian và Việt Cộng đưa ra như “Hãy cùng bắt tay nối kết, hoà hợp để cùng canh tân đất nước, từ đó sẽ dùng tình thương xoá bỏ hận thù, cảm hoá để CSVN giác ngộ quay về với chính nghĩa quốc gia,v,v...”. Ngược lại, hãy dựa trên những bằng chứng thực tế, đừng bao, dại dột giờ tin tưởng CSVN sẽ thay đổi, cho dù chế độ ấy có được thay thế bằng những thế hệ “CS con”. Bởi lẽ tục ngữ Việt Nam có câu “Trứng Rồng sẽ đẻ ra Rồng- Liu điu thì vẫn một giòng Liu điu” không thể khác. Tất cả những lý luận, biện luận cho CSVN ngày nay, chỉ là sự lừa bịp, ru ngủ trong đấu tranh, không ngoài mục đích mong biến cộng đồng người Việt tỵ nạn trở thành thần dân của chế độ vong nô, hèn nhược CSVN, hầu có thể triệt thoái toàn thể tinh thần đấu tranh của người dât Việt Nam nói chung. Một điều cuối cùng cần ghi nhớ là “CS không bao giờ thay đổi, chỉ có thể thay thế” như ông Boris Yeltsin đã nói. Chỉ có sức mạnh đoàn kết của dân tộc mới thực sự là một thế lực có thể triệt thoái được cái thể chế vong nô, thối nát CSVN, tái tạo hạnh phúc, an vui cho dân tộc và rửa hờn cho non sông. Không thể trông mong vào bất cứ thế lực nào, khi sức mạnh của dân tộc vẫn còn đang say ngủ.  



Phạm Thanh Phương


Phạm Thanh Phương

Cái gì đến rồi sẽ đến, “Đại Hội Việt Kiều” cũng đã khai mạc với trên dưới một ngàn người mà CSVN gọi là “đại biểu Việt kiều”. Nhìn vào danh sách “đại biểu”, có lẽ ai cũng thấy đại đa số là những tên tuổi hầu đã về từ các nước CS cũ vùng Đông Âu, mà cộng đồng người Việt tỵ nạn CS cũng chưa từng biết qua. Ấy thế mà CSVN vẫn oang oang tuyên bố với RFA là đó là các “Đại Biểu’ đại diện 101 quốc gia trên thế giới. Tuy vậy, đến khi bị hỏi vặn thì Trần Trọng Toàn, Phó chủ nhiệm “Uỷ Ban Nhà Nước Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài” phải trớ đi, trả lời lập lờ là chỉ có một số người được gửi về từ một số cái gọi là “Hội Việt kiều” hoặc “Chi hội Việt kiều” từ một số quốc gia trên thế giới và một số các nhân, phe nhóm đã từng đóng góp với nhà nước CSVN qua hình thức buôn bán, từ thiện cứu trợ thiên tai, cứu đói giảm nghèo, cứu trợ y tế và giúp các trẻ em thất học, bại liệt,v,v....

Để đi sâu vào vấn đề, có lẽ ai cũng thấy cái mà CSVN gọi là “Đại biểu” hoàn toàn là một điều “lập lờ đánh lận con đen” nhằm lừa bịp người dân trong nước nói riêng và quốc tế nói chung. Nếu ai quan tâm theo dõi tất sẽ thấy, gọi là “Đại biểu” cộng đồng người Việt tại hải ngoại mà không hề có một tên tuổi nào gọi là có tiếng tăm, uy tín đã sinh hoạt trong các hội đoàn, đoàn thể hay trong các tổ chức cộng đồng tại hải ngoại. Ngược lại chỉ thấy một đám người lạ hoắc chưa từng biết mặt, nghe tên. Còn lại cái mà CSVN gọi là hội hay chi hội “Việt kiều” tại hải ngoại này cũng chưa từng nhắc qua tại những nới đông đảo người Việt cư ngụ như Mỹ, Úc, Canada,v,v,.. Như vậy, phải chăng đây là những tổ chức ma, hay là những nhóm bí mật như “hội kín” thời pháp thuộc ở mội nơi hang hốc nào đó.

Cũng trong đoạn phỏng vấn của RFA, Trần Trọng Toàn, Phó chủ nhiệm Uỷ Ban Nhà Nước Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài cho biết
"Vì tôi là người tiếp xúc với anh em trí thức Việt kiều ở các nước mà tôi đi thăm thì mọi người cũng đều trăn trở là làm thế nào đóng góp phần mình để đóng góp cho nền giáo dục Việt Nam...“.
Với câu nói này cuả Trần Trọng Toàn có thể đúng với sự thật, nhưng có lẽ không đúng theo nghĩa của ông là họ trăn trở để làm thế nào đóng góp cho chế độ CSVN bằng cách mang công sức và của cải về xây dựng đất nước khi chế độ thối nát vong nô CSVN còn tồn tại. Ngược lại, điều mà trí thức tại hải ngoại lúc nào cũng luôn trăn trở là làm thế nào có thể tận diệt tất cả những gì đang đi ngược với nhân bản, tượng trưng qua chế độ CSVN. Cái quan trọng của trí thức hải ngoại là muốn dân tộc mình được đầy đủ cái quyền làm người như tất cả mọi người trên trế giới, họ không muốn và rất đau lòng khi nhìn dân tộc mình bị khủng bố, bóc lột và nhục nhã như hiện tại dưới bàn tay CSVN. Họ cũng muốn đất nước được thăng hoa và lãnh thổ, lãnh hải được toàn vẹn, không phải chịu uất nhục, cúi đầu đem giang sơn dâng hiến cho ngoại bang. Như vậy, những người Trần Trọng Toàn đã tiếp xúc chắc chắn không phải là những trí thức chân chính trong cộng đồng người Việt tỵ nạn tải hải ngoại mà chỉ là những tên đã khánh kiệt lương tri, thối rữa tâm hồn chỉ vì tham danh, hám lợi, bám theo cái cái bánh vẽ CSVN đưa ra. Chỉ có những loại người này mới không nhìn thấy và cảm nhận được cái đau của dân và cái nhục của nước đang hiện diện trên khắp nẻo đường quê hưong.

Nói về mục đích và nột dung “Đại Hội Việt Kiều”, Trần Trọng Toàn cho biết
“Đây là một diễn đàn mở, vì thế những vấn đề nêu ra trong hội nghị cũng là những vấn đề mở. Diễn đàn mở này sẽ rất hay vì từ trước Việt Nam nhiều lần tổ chức các buổi họp mặt dành cho Việt kiều song không hiệu quả lắm, vì thế hội nghị lần này là dịp để lắng nghe vì muốn thay đổi hay cải tiến thì cần lắng nghe ý kiến của Việt kiều”. 
Chẳng những thế, ông Toàn còn cho biết, đảng và nhà nước sẵn sàng nghe ý kiến đóng góp những vấn đề xưa nay được cho là “nhạy cảm” như hiện tượng Boxite ở Tây Nguyên, vấn đề lãnh hải và lãnh thổ bao gồm chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trương Sa nữa. Từ điểm này, đại đa số dư luận cho rằng, nếu nói như ông Toàn thì chẳng hoá ra đảng và nhà nước CSVN chỉ thích nghe ý kiến của “Việt kiều” thôi sao? Còn ý kiến của những trí thức trong nước để đi đâu? Tại sao những trí thức trong nước như Ls Lê Chí Quang, Bs Phạm Hồng Sơn, Bs Nguyễn Đan Quế, Ls Lê Công Định, Ls Lê Thị Công Nhân và rất nhiều người khác đang bị cầm tù cũng chỉ vì đóng góp ý kiến trước cái khốn cùng của dân tộc và uất nhục cuả quê hương. Do đó, dư luận cũng cho rằng tất cả những gì ông Toàn nói chỉ là trò bịp, con số trên dưới một ngàn người mò về cũng là người của đảng CSVN, về để tụ họp “áo thụng vái nhau” diễn tuồng, phân phát “huân chương” bịp thiên hạ cho vui, còn lại thực tế “Mười voi vẫn không dược một bát nước xáo”.

Nhận định về “Đại Hội”, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hưng hiện đang sống tại Thụy Sĩ và cũng là người đã về Việt Nam nhiều lần cho biết, ông cũng chẳng hứng thú gì với cái trò hề này, ông nói
"Tôi cũng trong số người được mời nhưng nói thật tôi rất phân vân bởi cái thời điểm bây giờ có những sự cố như thái độ của Việt Nam đối với trí thức qua nghị định 97 về vấn đề phản biện đưa tới việc các nhà trí thức hàng đầu của Viện IDS phải giải thể, hay là báo Tia Sáng, một cái nhìn của trí thức, không còn truy cập được nữa. Tôi e rằng rằng đây là khoảng thời gian mà không gây được sự phấn khởi để cho người trí thức tham gia đông đủ."...
Cũng trong vấn đề này đa số nhận định, CSVN đã lầm lẫn hay cố tình lầm lẫn một điều là khi thấy bất cứ ai đi ra đi vào Việt Nam nhiều lần là họ cho đó là những thành phần ủng hộ đảng và yêu đảng.Và đây cũng là thái độ “thấy sang bắt quàng làm họ” một cách nhập nhàng đã từng lừa bịp thiên hạ từ xưa đến nay của CSVN. Qua sự nhận định của Ts Hưng, để có thể thấy được một trí trức thực sự không như CSVN nghĩ, để vô tỉnh hay cố ý trở thành con rối cho đảng và nhà nước CSVN thao túng.

Trên thực tế, trong một chế độ độc tài toàn trị như CSVN, thì chắc chắn không bao giờ có được một sự lắng nghe trung thực, thật thà để xây dựng đất nước. Nếu CSVN biết lắng nghe tất cả những trí thức trong nước đã không bị trù dập, tù tội, ngược lại họ phải được tuyên dương. Hơn nữa, nếu CSVN biết lắng nghe thì cái quyền tự do ngôn luận và tự do thông tin đã được tôn trọng và làm gì có cái cảnh hàng loạt trí thức bị khủng bố trùng dân, bắt bớ , tù tội như Ls Lê Chí Quang, Bs Pham hồng Sơm, Bs Nguyễn Đan Quế, Ls Lê Thị Công Nhân , Ls sư Lê Công Định,v,v.... Đây là một thực tế phũ phàng mà ai cũng thấy, nhưng rất tiếc, cái bả lợi danh đã làm cho một số người phải bóp nất lương tri để cong lưng, uốn lưỡi trở thành con rối, nhảy muá trong vở tuồng lừa bịp “Đại Hội Việt Kiều” của CSVN bày ra như đã thấy.

Tóm lại, CSVN là một loại vi khuẩn ung thư mãn tính, không bao giờ và cũng không có một loại thần dược nào có thể chữa trị, ngoại trừ khi bị đốt trành tro bụi. Do đó, tất cả những luận điệu giác ngộ, chấp nhận lắng nghe ý kiến “Việt Kiều” chỉ là một trò tung hứng rẻ tiền nhằm nhiễu loạn nhân tâm, tạo ra một sự phân hoá hầu triệt tiêu ngọn lửa đấu tranh trong cộng đồng người Việt tại hải ngoại mà thôi. Đây cũng chỉ là một chiến thuật như những chiến thuật trước đây qua nghị quyết 114 năm 2001 và nghị quyết 36 năm 2003, nhưng kết quả cho thấy cũng chẳng có gì khà quan ngoài nhiễu loạn được một khoảng thời gian ngắn và gây ra đưọc một số phân hoá nhỏ.

Để bảo đảm hơn, lần này CSVN chỉ mời một con số rất khiêm nhường trên dưới 1000, mặc dù khả năng CSVN có thể mời con số gấp năm hay mười lần như thế. Tuy nhiên, theo đa số nhận định, CSVN chỉ có thể thành công trên mặt hình thức co số những “con rối” về tham dự, nhưng cũng sẽ chẳng đi đến một kết quả nào với nội dung đã đưa ra.

• Phạm Thanh Phương



 Phạm Thanh Phương 



Thế giới ngày nay đã đi vào thế kỷ 21, một thể kỷ văn minh của nhiều nhiều mặt, trong đó dĩ nhiên không thiếu phần phát triển xã hội nhân bản. Tuy nhiên, sự văn minh tiến bộ này hầu như chỉ được giới hạn ở các nước Tự do, Dân chủ như một thế giới riêng biệt của loài người, nó không thể nào thẩm thấu, soi sáng đến những vùng tối tăm nơi các chế độ độc tài, toàn trị, trong đó có CSVN. Với bản chất gian ác, tham lam, những con người CS rất khó có thể thoát ra khỏi cái u mê luẩn quẩn, để họ có thể cập nhật với đà tiến triển cuả  nhân loại, hầu có thể hoà nhập với một xã hội nhân bản, để tạo được một đời sống an vui tự tại cho ngươì dân giống như tất cả những người trong thế giới tự do. Tuy nhiên, dù sống trong hoàn cảnh bị cai trị, bưng bít của một tập đoàn u mê, man rợ, nhưng trước ánh sáng văn minh của nhân loại, người dân Việt Nam vẫn cố gắng tìm cho mình một phương tiện, để có thể cập hiểu, so sánh, định lại vị trí của chính mình với hiện tình đất nước. Do đó, dù muốn hay không những tuyên truyền, bịp bợm của CS cũng không còn có thể bít mắt được người dân như những ngày tháng của thập niên 30-40 như xưa.





Nhìn vào thực tại để thấy được trong những năm gần đây, CSVN đã cố gắng hao tổn rất nhiều trí lực, tài lực, cũng không ngoài mục đích mong khống chế người dân đi vào cái vòng luẩn quẩn u tối ấy của họ.Nhưng rất tiếc, kết quả cáng ngày càng cho thấy được những thất bại não nề không thể tránh. Biết bao nhiêu chương trình kế hoạch được đưa ra áp dụng, biết bao nhiêu nghị quyết, quyết dịnh mang tính khủng bố, răn đe. Tất cả cũng không thoát được cái cảnh “Dã tràng se cát”. Người dân vẫn sáng suốt nhìn ra cái chân giá trị của dòng đời, và cái thực hư, trắng đen của chế độ. Tuy là vậy, nhưng trước bản năng sinh tồn trong một nhà tù vĩ đại CSVN, đại đa số người dân vẫn sợ những tai hoạ đến với bản thân, gia đình và sợ cả sự liên lụy bi thương có thể dưa đến cho thân bằng, quyến thuộc. Tuy nhiên, sức chịu đựng của con người chỉ có một giới hạt nhất định, trong khi sức ép từ bè lũ xuẩn động CSVN mỗi ngàymỗi tăng. Do đó, trong cái thế “tức nước, vỡ bờ”, chữ sợ trong lòng dân tộc đã từ từ suy giảm, để hôm nay cũng đã có được khá nhiều nhân vật, chấp nhận thương đau, cất lên tiếng nói của lương tri, hầu có thể thức ngộ lòng người trước cảnh tồn vong của đất nước và dân tộc.





Nói về “Sợ & Không Sợ”, theo một cái nhìn chung, dưới bất cứ một chế độ độc tài toàn trị nào đều dùng sự sợ hãi để khống chế người dân. Tuy nhiên, đến khi người dân hết sợ, tất nhiên nỗi sợ  ấy sẽ tự động chuyển qua cho chế độ hay những kẻ cầm quyền, nó gần như là một định luật tự nhiên của vũ trụ. Bằng chứng cho thấy, tất cả những hành vi bắt bớ, cầm tù các “Nhà đấu tranh dân chủ” hoặc đàn áp Tôn giáo của CSVN đang gia tăng một cách trơ trẽn, chứng tỏ nỗi sợ hãi đang tăng dần trong guồng máy cai trị CSVN.



Cả một hệ thống tự hào là “Đỉnh cao trí tuệ” mà hệ thống luật pháp lúc nào cũng mơ hồ, loạn xà ngầu như một mớ giấy lộn, gạn lọc mãi mới đưa ra được cái điều 88, nhai đi nhai lại như một tấm giẻ rách, không hơn, không kém. Bất cứ điều gì xẩy ra, chế độ cảm thấy sợ, đều được quy vào điều 88. Hầu như cả chế độ chỉ có điều 88 làm bùa hộ mạng, nó như một loại “phép thần thông” để bảo vệ tất cả những khuất lấp, gian tà , ngu xuẩn của họ. Nếu cho rằng điều 88 này được chế độ coi như một ”phép thần thông” thì cũng chẳng ngoa tí nào, vì chính điều 88 được áp dụng trên mọi lãnh vực từ to đến bé, nó được biến hoá theo từng sự việc. Kèm theo điều 88 là một đống nghị quyết, quyết định được đưa ra lả tả như lá muà thu, nhiều cái đã chửi vào mắt nhau chan chát, khiến người dân cũng chẳng hiểu nhà nước muốn nói gì, và có lẽ chính nhà nước cũng không hiểu được họ đang làm cái giống gì nữa, chỉ biết đưa ra như một cái máy vô hồn đẻ tự trấn an mà thôi.





Bằng chứng mới đây, khi cái quyết định 97 ra đời, nhằm bịt miệng Viện Nghiên Cứu Phát Triển (IDS) nói riêng và toàn dân nói chung. Rất may, Viện Nghiên Cứu Phát Triển đã nhận ra cái quái đản của nó, và cũng nhận ra họ không thể chấp nhận bị một lũ xuẩn khống chế, bịp bợm thên nữa và cũng chẳng có biện pháp nào thay đổi hoàn cảnh., đành phải tuyên bố giải tán để bày tỏ lập trường. Sự giải tán Viện Nghiên Cứu Phát Triển là một quyết định sáng suốt như cho dám lãnh đạo CSVN biết rằng họ không thể chấp nhận  cái cảnh “Thằng khôn đi học, thằng ngu làm thầy” như hoàn cảnh tréo ngoe cuả Quân Cán Chính VNCH đã phải gánh chịu sau năm 1975 trong cái trại tù rải rác trên toàn cõi đất nước. Ngoài ra, sự kiện giải tán  Viện Nghiên Cứu Phát Triển cũng chứng tỏ sự sơ hãi không còn nằm trong họ, mặc dù họ cũng là một cơ quan thuộc guồng máy ngu xuẩn CSVN.





Nhận thấy quyết định 97 đã vô hiệu, không thể làm những con ngưởi “trí thức” trong Viện Nghiên Cứu Phát Triển phải sợ hãi để tiếp tục cúi đầu đóng vai trò con rối của chế độ. Ngày 14-10-2009, Nguyễn tấn Dũng lại phải tiếp tục lên tiếng hù dọa “sẽ xử lý những phát biểu thiếu tinh thần xây dựng của một số cá nhân thuộc Viện Nghiên Cứu Phát Triển.”. Trước lời tuyên bố này của Dũng, lại nhớ đến lời nói của ông Boris Yeltsin”Cộng Sản không thể thay đổi mà phải dẹp bỏ”. Đúng vậy, dù đang hội nhập với thế giới văn minh của thế kỷ 21, nhưng đường lối, chính sách và hành xử cũng chẳng khác nào tên đại đồ tể Hồ Chí Minh từ thập niên 40 khi xưa. Cũng cái lối đưa quyết định, không sợ thì hù doạ, doạ mãi không sợ thì cuối cùng mang cái bùa điều 88 là xong. Tuy nhiên, nhìn vào hoàn cảnh đất nước ngày nay, dân trí đã không còn như xưa, hơn nữa hệ thống truyền thông toàn cầu đã quá tối tân đã đưa nhân loại đến gần nhau hơn. Do đó, CSVN cũng sẽ không còn biện pháp nào để làm tăng được chữ sợ trong lòng dân tộc. Và ngược lại, họ phải sợ trước sự ý thức của người dân.





Xoay quanh sự kiệm “Quyết Định 97”, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, nguyên viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phát Triển đã gửi thư lên Bộ Tư Pháp và Quốc Hội yêu cầu phải "xử lý" cái “Quyết Định 97”. Theo Ts A nhận định, “Quyết Định 97” là một quyết định phi pháp và vi hiến, nó xâm phạm quyền làm người một cách trầm trọng, và tất nhiên sẽ đưa đất nước từ suy thoái này đến suy thoái khác. Bởi lẽ, CSVN sẽ không bao giờ có được những đóng góp ích quốc, lợi dân từ giới “trí thức”, để tiếp tục đưa đất nước lăn lộn trong cái đói khổ, u mê, lạc hậu mà thôi. Đồng thời ông A sẵn sàng chấp nhận những hậu quả xấu nhất với “lá bùa 88” cuả CSVN như những ông Phạm Văn Trội, Vũ Hùng, Nguyễn Xuân Nghĩa, và hàng chục nhưng nhà trí thức khác đang và đã cất  lên tiếng nói, đòi các quyền căn bản của con người cho tất cả dân tộc Việt Nam.





Trở lại chữ “Sợ & Không Sợ”, giải thưởng nhân quyền Hellman/Hammett do Human Rights Watch (Tổ chức theo dõi nhân quyền) năm nay đã quyết định trao cho sáu “ Nhà Đấu Tranh Dân Chủ” Việt Nam. Trước sự kiện bất ngờ này đại đa số nhận định, đối với người Việt Nam sáu giải nhân quyền này đã thay cho lời xác định của nhân loại là nhưng gì các “Nhà Đấu Tranh Dân Chủ” đã và đang thực hiện chính là những tiếng nói lương tri của nhân bản. Đồng thời, đây cũng là một chất liệu làm tăng sự sợ hãi của tập đoàn cai trị CSVN và cũng sẽ góp phần vào công việc triệt tiêu nỗi sợ hãi trong lòng dân tộc. Hơn nữa, sáu giải nhân quyền này cũng như một thông điệp nhắn nhủ những người Việt Nam  can đảm trực diện trong đấu tranh hiểu được, sự chiến đấu cho lý tưởng và lương tri của họ rất cao cả và cũng sẽ chẳng bao giờ bị cô đơn.



Tóm lại, thế giới ngày nay không còn cách biệt như ngày xưa, dân trí Việt Nam cũng không còn nằm trong thập niên 30- 40. Như vậy, tập đoàn CSVN cũng không còn cơ hội bịp bợm, hoặc phát triển thú tính một cách mạnh mẽ, trắng trợn như trước. Do đó, đây chính là thời điểm tất cả người dân chúng ta trong cũng như ngoài nước cần nên quan tâm nhiều hơn, thực hiện sự ý thức và chính nghĩa trước tình hình bi đát của đất nước. Đồng thời cũng là lúc đánh tan sự sợ hãi trong nội tâm, phát huy truyền thống “Uy vũ bất năng khuất” của tiền nhân trên dòng lịch sử, để cùng nhau đứng lên tạo một trang sử mới hào hùng, rửa được nỗi nhục cho Tổ quốc và nỗi hờn của dân tộc do bọn tội đồ CSVN gây ra.





Phạm Thanh Phương


Phạm Thanh Phương

Đọc “Thư Cáo Lỗi” về việc hủy bỏ “Ngày Truyền Thống Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức lần thứ 58” do Trưởng Ban Tổ Chức Nguyễn Hoàng Dũng ký ngày 07-10-2009, chúng tôi cảm thấy rất bàng hoàng vì không hiểu tại sao lại xẩy ra câu chuyện quái đản như thế này. Một sự việc không thể xẩy ra, nhất là trong hoàn cảnh lưu vong, khi con đường dang dở đối với Tổ quốc và dân tộc vẫn chưa toại nguyện, đang cần nhiều bàn tay, khối óc của mọi tầng lớp, nhất là tập thể cựu quân nhân, trong đó thành phần “Thủ Đức” vẫn là một lực lượng quan trọng. Để đi tìm nguyên nhân, chúng tôi có thăm hỏi một số vị niên trưởng và biết được một số việc có thể nói là rất đau lòng, e rằng nó sẽ mang ảnh hưởng xấu đến danh dự “Gia Đình Thủ Đức NSW” nói riêng và tất cả Cựu Quân Nhân nói chung.

Ngược dòng thời gian nhiều năm trên đất Úc, có lẽ ai quan tâm sinh hoạt trong cộng đồng đều không thể phu nhận “Hội Thủ Đức NSW” là một tập thể trước sau như một, vẫn một lòng chung thủy giữ vững tinh thần đoàn kết “Huynh Đệ Chi Binh” và truyền thống “Cư an- Tư nguy”, giữ gìn nhân cách và đề cao tinh thần “Tổ quốc- Danh dự- Tránh nhiệm” của người lính QL/VNCH một cách trọn vẹn qua hành xử nội bộ, và những tích cực gắn bó với CĐ sở tại trong mọi sinh hoạt, từ văn hoá đến chính trị, đấu tranh. Tuy nhiên, rất tiếc kể từ khi Liên danh ông Đào Hữu Xuân đắc cử nhiệm kỳ 2007-2009 đến nay, trong Hội đã xẩy ra những chuyện không hay, làm phiền lòng rất nhiều hội viên. Đồng thời những chuyện không hay ấy cũng để lại một cái nhìn không mấy thiện cảm từ đồng hương đối với “Hội Thủ Đức NSW” nói riêng mà tập thể Cựu Quân Nhân nói chung.

Mặc dù đã xẩy ra nhiều việc không hay, nhưng vì tinh thần “Huynh Đệ Chi Binh”, không ai muốn lên tiếng trên công luận, e rằng lại vướng vào cái cảnh “Vạch áo cho người xem lưng”. Tuy nhiên, sau khi được tin “Hủy Bỏ Ngày Truyền Thống Liên Trường VKTĐ lần thứ 58” qua lá “Thư Cáo Lỗi” mà ông Nguyễn Hoàng Dũng đã ký ngày 07-10-2009,  chúng tôi đành phải mạnh dạn góp ý trước công luận, mong rằng có thể nới rộng dư luận, bảo vệ danh dự của Hội và niềm tin chung trên con đường dang dở của cuộc chiến chống CS, tìm tự do, an bình cho quê hương.

Nhân đọc “Thư Cáo Lỗi” về việc hủy bỏ “Ngày Truyền Thống Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức lần thứ 58”,  cũng xin nhắc lại về Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức được thành lập vào ngày 09-10-1051 và trong 24 năm (1951-1975),  trường đã đào tạo được tất cả 55 ngàn sỹ quan, trong đó có 23 vị tướng phục vụ trong tất cả mọi Quân Binh chủng trong QL/VNCH. Với con số này, có lẽ ai cũng hiểu Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Đức là một lực lượng chỉ huy chủ lực cuả cuộc chiến “Bảo Quốc-An Dân” trước năm 1975. Cũng theo truyền thống ấy, ngày nay trong các Hội đoàn, Đoàn thể, các tổ chức Cộng Đồng, đảng phái chính trị đấu tranh chống CS, đi tìm tự do, dân chủ và nhân quyền cho dân tộc, thậm chí cả trong giới truyền thông, lực lượng cựu SQTB Thủ Đức cũng vẫn là một con số đông nhất, đã và đang hiện diện trên mọi lãnh vực. Vì vậy, kể từ khi CS cưỡng chiếm miền Nam VN 30-4-1975, tất cả các Hội Cựu SVSQ/TBTĐ trên toàn thế giới đều đồng thuận chọn ngày thành lập Liên Trường làm “Ngày Truyền Thống”, để hàng năm anh em có cơ hội tề tựu, cùng nhớ về trường “mẹ”, hãnh diện và ghi nhớ lời “mẹ’ dạy trong bổn phận và trách nhiệm đối với Quốc gia, dân tộc. Nói về “Ngày Truyền Thống Liên Trường VKTĐ”, một số người cho rằng cũng có thể xem như là một ngày giỗ, để những đứa con có dịp trở về, xiết chặt tay nhau cùng tưởng nhớ công đức sinh thành, dưỡng dục của song thân, cùng nắm  tay nhau, hãnh diện đứng thẳng làm người hữu dụng của xã hội. Như vậy, sự đơn phương hủy bỏ “Ngày Truyền Thống Liên Trường VKTĐ” có thể nói là một hành động ngỗ nghịch, vong bản. Nếu thu hẹp cá nhân, thì nó tượng trưng hành động vô kỷ luật của quân nhân trong QL/VNCH, thậm chí hành động vô kỷ luật này lại xẩy ra ở giai cấp chỉ huy như Ban Tổ Chức “Ngày Truyền Thống Liên Trường VKTĐ” và Ban Chấp Hành của Hội.

Tóm lại, để giữ gìn và bảo vệ uy tín và hình ảnh tốt đẹp của người quân nhân QL/VNCH nói chung và “Gia Đình Thủ Đức NSW” nói riêng, thiết nghĩ các vị niên trưởng nên cố gắng khuyên bảo và giải quyết thỏa đáng sự việc. Riêng ông Đào Hữu Xuân, thiết nghĩ ông cũng là một người có lòng. Nhưng có lẽ vì một số kẻ thiếu chính tâm thao túng nên dẫn đến những việc đáng buồn như đã xẩy ra. Rất mong ông nghĩ lại để có thể đóng góp công sức và tài năng của mình một cách hữu ích cho Hội nói riêng và trong bất cứ vị trí nào nói chung.
Sau cùng, cũng xin nhắc lại truyền thống “Cư An- Tư Nguy” của trường qua bài thơ Hán - Việt sau đây, mặc dù không nhớ rõ tác giả.

“Nguy giả an kỳ vĩ giả dã
Vong giả bảo kỳ tồn giả dã
 Loạn giả hữu kỳ trị giả dã
Thị cố quân-tử an nhi bất vong nguy
Tồn nhi bất vong vong
 Tri nhi bất vong loạn
 Thị dĩ nhân an nhi quốc gia khả bảo gia”

Có nghĩa là:
 
 Người bị nguy là bởi cứ yên vui nơi ngôi phận mình
 Bị mất là bởi chỉ lo tới cái hiện có
 Bị loạn bởi tin cậy cái trị có sẳn,
 Bởi thế, người quân-tử lúc sống yên không quên cái nguy
 Còn không quên lúc mất 
 Khi thịnh-trị không quyên cảnh loạn suy,
 Như vậy mới yên thân mà giữ được nước nhà”

Phạm Thanh Phương


-Phạm Thanh Phương-

Theo dõi sự kiện Bát Nhã trong nhiều ngày qua, hình ảnh 400 tu sĩ thuộc Pháp môn Làng Mai bị đánh đập, sỉ nhục và hiện tại đã bị đuổi ra khỏi tu viện, lang thang đó đây như những kẻ không nhà, đã tạo nên một nỗi thương tâm, chấn động đại đa số dư luận từ trên khắp thế giới.Sự kiện được đại đa số dư luận bình luận và lên án là một hiện tượng dã man bỉ ổi nhất đối với tôn giáo từ hơn bao mươi năm qua. Tuy vậy, với những thực tế đã xẩy ra, hầu như trong nước cũng ít người được biết đến, ngoại trừ một số người địa phương, cư ngụ quanh hiện trường. Tuy nhiên, điếu đáng nói ở đây là ngay những nhân vật có trách nhiệm trong vụ việc như Thiền sư Nhất Hạnh và nhà cầm quyền CSVN cũng không thấy lên tiếng, tất cả bao trùm một sự im lặng rất khó hiểu, để dư luận mỗi ngày càng thêm trăn trở, băn khoăn.

Trải qua một thời gian khá dài gần bốn tháng, có lẽ trước làn sóng xôn xao của dư luận trong và ngoài nước. Ngày 30-9-2009, một bức thư của “vị thầy khả kính” Nhất Hạnh gởi Nguyễn Minh Triết xuất hiện trên trang Web Phù Sa với nội dung xin Chủ tịch nhà nước CSVN ra tay can thiệp, nhưng rất tiếc không có một sự hồi đáp nào. Do đó, đến ngày 02-10-2009, một lá thư thứ hai của Thiền sư Nhất Hạnh tiếp tục bung ra trên trang Web Phù Sa, với nội dung kêu gọi tất cả nhân sĩ, trí thức ký tên vào thỉnh nguyện thư để cứu giúp 400 đệ tử cuả “thầy” đang ngộ nạn. Tuy nhiên, một điều đáng chú ý và khó hiểu là cả hai bức thư trê n trang Web Phù Sa, “vị thầy khả kính” Nhất Hạnh không xử dụng tên tuổi của ông một cách chính danh, mà ông chỉ ký với hai chữ Nguyễn Lang, một cái tên mà rất ít ai được biết đến, nó chỉ là một bút hiệu được ký trên tác phẩm “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận” xưa kia. Ngoài ra trong bức thư, với cái tên Nguyễn Lang, thiền sư Nhất Hạnh tỏ ra vẫn tin tưởng vào “đạo đức và liêm sỉ” của CSVN qua câu văn "các vị cảnh sát và công an này chắc hẳn không phải là con cháu của Cách Mạng...". Nói như thế, nếu đám Công an này là con cháu “Cánh Mạng” thật sự như Thiền sư Nhất Hạnh nghĩ thì họ sẽ có đầy đủ đạo đức, liêm sỉ và trách nhiệm bảo quốc, an dân hay sao? Đây mới chính là điểm then chốt trong cái lập lờ của Thiền sư Nhất Hạnh. Chính sự lập lờ này đã làm tăng thêm sự nghi ngờ về chính bản thân ông và những bí ẩn của vụ việc trước dư luận.

Xoay quanh sự kiện Bát Nhã đa số nhận định, Thiền sư Nhất Hạnh một người có công rất lớn với CSVN từ xưa đến nay mà ai cũng biết. Điển hình mới nhất là ông đã đưa một phái đoàn Làng Mai về làm lẽ cầu siêu từ Nam ra Bắc rất rình rang với sự đón tiếp rất “hồ hởi, phấn khởi” của đảng và nhà nước CSVN. Hơn nữa, sự tham gia của phái Làng Mai vào hoạt động lễ Phật Đản 2007 do CSVN đăng cai tổ chức, cũng đã được “quốc tế” nhìn nhận như một sự khởi sắc đạc biệt về tự do tôn giáo tại Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sữ hơm ba mươi năm qua kể từ khi CSVN cưỡng chiếm toàn thể đất nước. Sự kiện này cũng đã được Nguyễn Minh Tríết, Chủ tịch nhà nước CSVN ghi nhận là “những đóng góp tích cực vào hoạt động tôn giáo ở Việt Nam.... Sự việc này đã cho thấy Thiền sư và các thành viên trong đoàn đã có ấn tượng tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam, về chính sách tôn giáo cởi mở của Nhà nước Việt Nam...". Từ đó, các nước Tây phương đang bang giao với Việt Nam như Mỹ cũng đã dùng hình ảnh này làm lý do chính đáng để giải toả cho CSVN ra khỏi danh sách CPC một cách danh chính, ngôn thuận. Như vậy, tại sao Thiền sư Nhất Hạnh không dám dùng tên tuổi thật của mình một cách chính danh mà phải dùng một cái tên Nguyễn Lang.

Trước hành xử bất minh của Thiền sư Nhất Hạnh đa số cho rằng, với tiếng tăm, uy tín và công cán sẵn có, nếu Thiền sư về nước, trực tiếp gặp bọn côn đồ Trung Uơng Đảng CSVN để bàn luận, can thiệp ngay từ đầu, có lẽ 400 đệ tử của ông sẽ không đến nỗi phải chịu cảnh đau khổ, uất nhục như thế này. Ngược lại, ông đợi cho đến lúc sự việc qúa tồi tệ, tan tác thê lương ông mới dám viết hai lá lên tiếng, mà cũng chỉ dám lên tiếng với một cái tên lạ hoắc như vây. Thực sự mà nói, với cái tên Nguyễn Lang, có lẽ nếu CSVN có đọc được thư chăng nữa, họ cũng vất vào xọt rác vì chẳng cần biết ông là ai và quốc tế cũng chẳng thèm quan tâm. Cũng trong sự việc này, theo nhiều nguồn tin cho biết, hiện nay một số nhân sĩ và trí thức cũng đang lưỡng lự khi quyết định ký tên và “thỉnh nguyện thư” do Nguyễn Lang kêu gọi, vì hầu như đã nhìn thấy một điều gì đó bất ổn từ một sự vướng mắc nào đó với CSVN mà Thiền sư Nhất Hạnh rất khó giải bày. Sự vướng mắc này có thể rất quan trọng, nó quan trọng đến nỗi một Thiền sư nổi tiếng, uy tín như ông Nhất Hạnh mà phải bóp chết lương tri, quên đi cái tinh thần “Vô Úy” cuả nhà Phật, để phải chấp nhận cái cảnh “Đem con bỏ chợ”, hy sinh gần 400 đệ tử của mình một cách tức tưởi, tàn nhẫn chưa từng thấy trong lịch sử Tôn giáo.

Song song với sự lên tiếng không chính danh của Thiền sư Nhất Hạnh, ngày 6-10-2009, Thông Tấn Xã CSVN cũng đưa ra lời tuyên bố của Võ Ngọc Hiệp, Phát Ngôn Viên tỉnh Lâm đồng cho biết "Đây là việc tranh chấp nội bộ giữa Phật tử tu viện Bát Nhã do Thượng Tọa Thích Đức Nghi làm viện chủ và số người tu theo pháp môn Làng Mai. Nhà nước CSVN không muốn can thiệp vào nội bộ của tôn giáo””. Để phụ hoạ cho luận điệu này, CSVN cho một số tay sai tuyên truyền trong dư luận rằng “TT Đức Nghi chỉ là một kẻ bất chính đội lốt thầy tu, nên sau khi Thiền sư Nhất Hạnh đã đổ vào trên một triệu USD xây dựng, nới rộng Tu viện, TT Đức Nghi động lòng tham nên đã thuê côn đồ, du đãng tạo ra sự kiện đánh đuổi những tu sĩ thuộc Pháp môn Làng Mai hầu chiếm đoạt tài sản về làm của riêng”. Tuy vậy, đa số dư luận cũng sáng suốt nhận ra đây chỉ là những lý luận o ép, cưỡng từ, đoạt lý, thiếu hẳn đi sự khả tín để có thể thuyết phục, vì nó chẳng khác gì luận điệu tuyên truyền gán tội của nhà nước CSVN, hầu trút bỏ trách nhiệm, ít nhất cũng là trách nhiệm đối với trật tự, an ninh trong xã hội.
Nhìn sâu vào sự kiện, để thấy được một điểm gian mà không ngoan của Võ Ngọc Hiệp, những là khi bọn “côn đồ, du đãng” tấn công các tu sĩ tại Bát Nhã, tại hiện trường lúc ấy có sự hiện diện của Công an và giới chức lãnh đạo tỉnh Lâm Đồng như Tỉnh ủy, huyện ủy, nhưng không có thấy một hành động nào can thiệp để ổn định trật tự. Ngược lại, họ còn chỉ huy đám “côn đồ, du đãng” bắt giữ người này, đánh đập người kia, và tống lên xe chở đi. Như vậy chức năng của đảng và nhà nước CSVN là gì? Là một hệ thống “chính quyền” bảo vệ dân hay là một hệ thống côn đồ, du đãng, đánh đập cướp bóc dân, có lẽ ai cũng có thể nhìn ra.

Cũng trong vòng sự kiện, một nhận định khác được dư luận đưa ra, mang mức độ khả tín cao và thuyết phục hơn cho rằng, đây là vấn đề thuộc về lãnh vực chính trị và là chủ trương của đảng và nhà nước CSVN. Với nhận định này đa số cho rằng, dưới chế độ độc tài toàn trị như CSVN, chắc chắn không thể có bất cứ hội đoàn, đoàn thể nào có thể đứng ngoài hệ thống kiểm soát của đảng và nhà nước kể cả những lãnh vực thuộc từ thiện hay Tôn giáo. Như vậy, dù cho cái công “Hãn mã” của Thiền sư Nhất Hạnh có cao đến đâu chăng nữa cũng không thể bảo vệ cho 400 đệ tử của “thầy”đang ngộ nạn. Hơn nữa, Tu viện Bát Nhã đã được Thiền sư Nhất Hạnh đổ vào hơn một triệu USD, và như thế lại càng không có lý do nào có thể để được nằm ngoài bàn tay đảng và nhà nước. Do đó sự kiện dùng “côn đồ. du đãng” xử dụng bạo lực, đánh đuổi tu sĩ, chiếm lĩnh Tu viện là một chuyện dĩ nhiên đảng và nhà nước phải thi hành, nó cũng chẳng khác gỉ những hiện tượng đã từng xẩy ra với Toà Khâm Sứ Hànội, Giáo sứ Thái Hà và mới nhất là Giáo sứ Tam Tòa, đó là chưa nói đến những sự kiện người dân bị chiếm đoạt nhà cửa, ruộng vườn đã và đang xẩy ra trên khắp nẻo đường đất nước.

Tóm lại, sự kiện đàn áp tăng ni tại Tu viện Bát Nhã cũng là một chất liệu bạch hoá và tô đậm thâm cho cái bộ mặt bỉ ổi đầy thú tính của đảng và nhà nước CSVN, đồng thời cũng cho thấy một cái gì đó mang đầy tính khuất lấp giống như một tên “Việt gian” qua hành xử của Thiền sư Nhất Hạnh trong cái cảnh đau lòng “Đem co bỏ chợ” cuả “thầy”. Đồng thời, đây cũng là một tấm gương sáng cho những người nghĩ rằng, nếu lập công giúp CSVN tất nhiên sẽ được một sự ưu ái nào đó hay một đặc quyền, đặc lợi đều là những ảo tưởng, không thể có trên thế gian. Ngược lại, kết quả chỉ là những niềm đau trong ân hận. tủi nhục. Ngoài ra cũng trong sự kiện này, một điểm đặc biệt, như một ánh sáng của niềm tin trong công cuộc đấu tranh đòi tự do tôn giáo nói riêng, và đòi dân chủ, nhân quyền cho toàn dân nói chung, qua sự “Hiệp thông” của Dòng Chuá Cứu Thế Việt Nam, đã chia sẻ và giao cảm với nỗi đau cuả 400 tăng ni tại Tu viện Bát Nhã bằng những chân tình trong tinh thần “Vô Úy” mà hiện tại Thiền sư Nhất Hạnh đã lãng quên hay đánh mất.

• Phạm Thanh Phương


Phạm Thanh Phương

Trong nhiều ngày qua, sự  kiện CSVN dùng những biện pháp côn đồ thô bỉ  nhất trong vụ đàn áp tu sĩ tại Tu Viện Bát Nhã  - Lâm Đồng đã trở thành một vấn đề nóng bỏng, tạo ra một làn sóng dư luận khá mạnh mẽ  trong nhiều chiều hướng khác nhau. Tuy nhiên, dù chiều hướng nào chăng nữa, cũng không một ai có thể chấp nhận sự tàn bạo, dã man và thô bỉ trong hành xử của CSVN qua sự kiện này. Đồng thời, qua sự kiện Bát Nhã, cũng thấy dấu hiệu một sự đoàn kết trong tình tự dân tộc đã xuất hiện như một ánh sáng của niềm tin trong đấu tranh.  
Nhìn vào sự kiện Bát Nhã một số cho rằng, có lẽ những vị lãnh đạo tại Bát Nhã đã qúa tin tưởng vào sự tương quan có thể gọi là tốt  đẹp giữa Thiền sư Nhất Hạnh và nhà cầm quyền CSVN, vì thế nên các vị đã thiếu đi sự cẩn trọng đề phòng và uyển chuyển, từ đó khi sự kiện xẩy ra qúa bất ngờ không kịp trở tay để đưa lại sự tan tác đau thương cho tu sĩ như hôm nay. Với nhận định này cũng không phải là hoàn toàn vô lý, bởi lẽ theo sư cô Chân Không trả lời trong một cuộc phỏng vấn của RFA trước đây cho biết, trước khi xây dựng, nới rộng Tu viện, Thiền sư Nhất Hạnh cũng đã có rất nhiều cuộc tiếp xúc, bàn thảo rất cởi mở và hoà thuận với nhà cầm quyền CSVN, từ địa phương đến trung ương. Vì vậy theo sư cô Chân Không nhận định, có thể sự đàn áp thô bạo này chỉ là những “hiểu lầm” giữa “chính quyền địa phương” và Tu viện. Sư cô Chân Khong cũng hy vọng Thiền sư Nhất Hạnh sẽ giải toả sự kiện này một cách êm đẹp. Tuy nhiên, chờ đợi cả tháng qua, sự “hiểu lầm” này không thấy một dấu hiệu nào có thể gọi là khả quan trong việc giải toả, ngược lại mỗi ngày một gia tăng mạnh hơn để đi đến tình trạng bi đát như hôm nay. Một câu hỏi được đặt ra ở đây là từ khi xẩy ra sự kiện đàn áp Tu viện Bát Nhã không biết Thiền sư Nhất Hạnh đang ở đâu, mà mãi cho đến hôm nay, trải qua một thời gian khá dài, sự việc đã đi đến tồi tệ có cả máu và nước mắt, mới thấy được sự lên tiếng của Thiền sư.  
Một điều đặc biệt mà có lẽ ai cũng thấy, trong sự  lên tiếng của Thiền sư Nhất hạnh hình như cũng đồng thuận với sư cô Chân Không chỉ nhìn sự việc là một sự “hiểu lầm” của địa phương, đồng thời cũng thấy được niềm tin của Thiền sư Nhất Hạnh đối với CSVN qua danh xưng “Cách Mạng” hình như vẫn còn đậm đà thắm thiết. Vì thế sự lên tiếng của Thiền sư cũng chỉ là một đề nghị Chủ tịch nước CSVN Nguyễn Minh Triết “ngăn chặn hành động trái luân thường đạo lý của công an, cảnh sát tỉnh Lâm Đồng” mà thôi. Thiền sư không dám nghĩ xa hơn, để nhận định đây là chính sách ăn cướp của đám thổ phỉ vô luân CSVN. Do đó, Thiền sư đã thu hẹp đối tượng để trách móc rằng "các vị cảnh sát và công an này chắc hẳn không phải là con cháu của Cách Mạng...".
Thực sự mà nói, niềm tin của Thiền sư Nhất Hạnh cũng không có  gì gọi là vô lý như một số  dư luận nhận định. Bằng chứng cho thấy có lẽ Thiền sư Nhất Hạnh rất tin tưởng vào công cán của ông đối với CSVN như  BBC đã đưa ra “ Đặc biệt các đại lễ cầu siêu từ Nam ra Bắc và sự tham gia của phái Làng Mai vào hoạt động lễ Phật Đản 2007 mà CSVN đăng cai tổ chức được nhìn nhận như sự khởi sắc về tôn giáo..”. Điều này, vô tình hay cố ý phái Làng Mai của Thiền sư Nhất Hạnh đã có công rất lớn trong việc giúp CSVN thay đổi cái nhìn của quốc tế về tình trạng “tự do tôn giáo” tại Việt Nam, dù đó chỉ là một sự lừa bịp, ngõ hầu tạo sự dễ dàng trong bang giao và tiếp tục gia tăng đàn áp tôn giáo và nhân quyền, buôn dân, bán nước. 
Để nới rộng thêm dư luận, BBC cho biết sau cuộc gặp tại Phủ Chủ Tịch tháng 5-2007. Thông Tấn Xã VN trích lời Nguyễn Minh Triết nhận định "Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Đoàn tăng thân Làng Mai đã có những đóng góp tích cực vào hoạt động tôn giáo ở Việt Nam". Đồng thời Triết cũng nhấn mạnh  thêm điều này "cho thấy Thiền sư và các thành viên trong đoàn đã có ấn tượng tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam, về chính sách tôn giáo cởi mở của Nhà nước Việt Nam.". Không những thế, theo AFP cũng cho biết “Làng Mai đã đầu tư trên một triệu USD vào việc tổ chức, xây dựng, mở rộng tu viện Bát Nhã cho các khoá tu tập...”. Điều này chứng tỏ, Thiền sư Nhất Hạnh đã có những thoả hiệp và đặt niềm tin vào CSVN khá cao. Do đó, tu sĩ tại tu viện Bát Nhã cũng tin tưởng không chuẩn bị để rơi vào những tình huống bất ngờ là một chuyện quá bình thường. Và sư cô Chân Không nhận định sự kiện đàn áp dã man này chỉ là sự “hiểu lầm” cũng chẳng có gì phải ngạc nhiên.  
Cũng có thể với niềm tin ấy, nên sự lên tiếng, kêu gọi của Thiền sư vẫn còn mang tính cách nội bộ, chưa thấy một  sự lên tiếng nào với các cơ quan truyền thông hay chính giới ngoại quốc. Như vậy phải chăng Thiền sư cũng đang cố gắng củng cố niềm tin để tránh cái cảnh “vạch áo cho người xem lưng” ? Và cũng đang nuôi một hy vọng cuối cùng là với công lao của ông từ nhiều năm qua, CSVN sẽ nghĩ lại để thay đổi thái độ khá hơn với Tu viện Bát Nhã và các môn sinh Làng Mai của ông.  
Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn sơ vào sự lên tiếng của Thiền sư Nhất Hạnh, thì thấy Thiền sư vẫn tin vào sự sáng suốt của lãnh đạo đảng CSVN để mong vãn hồi sự việc. Nhưng nếu nhìn kỹ hơn thì hình như “niềm tin cách mạng” của Thiền sư cũng không còn được vững chắc cho lắm. Vì thế, ngày 2-10-2009, Thiền sư Nhất Hạnh đã viết một lá thư kêu gọi các nhân sĩ, trí thức trong và ngoài nước hãy cùng lên tiếng "kịp thời lên tiếng để che chở cho 400 người trẻ đang bị bao vây và đàn áp tại chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc.".  Trong lá thư Thiền sư Nhất Hạnh cũng nhấn mạnh "Lên tiếng bảo vệ cho họ không phải là quý liệt vị yểm trợ cho một tôn giáo là Phật giáo mà quý vị che chở cho những mầm non xanh tốt của tương lai không để bị dẫm nát bởi bạo hành.". Nếu nói như vậy, thì sự “bạo hành” dã man này ở đâu ra Thiền sư Nhất Hạnh có biết không? Hay ông chỉ nghĩ đó là từ một sự kích động nơi đám cộng an côn đồ địa phương. Trong khi ai cũng biết nó chính là chủ trương của hai chữ “Cách Mạng” mà ông đã trân trọng tin tưởng qua câu trách móc "các vị cảnh sát và công an này chắc hẳn không phải là con cháu của Cách Mạng...".  
Nói về dấu hiệu một sự đoàn kết trong tình tự dân tộc đã xuất hiện như một ánh sáng của niềm tin qua sự kiện Bát Nhã, ngày 6-10-2009 vừa qua, Văn Phòng Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam tuyên bố "Hiệp thông với tu sĩ Phật Giáo đang gặp nạn từ Tu Viện Bát Nhã.", văn thư hiệp thông này  đã được Linh Mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành, giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, đại diện  các tu sĩ của dòng ấn ký. Trong bức thư Hiệp thông có đoạn "Chúng tôi biết quý vị đang đứng trước một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, ước muốn tu hành đã bị ngăn trở và bị buộc phải rời khỏi tu viện của mình." Đồng thời trong thơ cũng có đoạn nhận định sự kiện "Sự dữ luôn tung hoành, nhưng lần này cường độ xúc phạm ở mức quá sức tưởng tượng. Chúng tôi rất lo lắng cho cuộc sống và việc tu hành của quý vị. Không gian tôn giáo và bầu khí tôn giáo của công dân đang bị xâm hại một cách nghiêm trọng.". Lm Phạm Trung Thành cũng gởi lời cầu chúc đến gần 400 tăng sinh tại Bát Nhã và mong rằng các vị hãy "vững lòng trước những đánh phá của thế gian." "mọi người thành tâm thiện chí đang hướng về những tăng sĩ Phật Giáo”. Ngoài ra, một Thông báo khác của Văn Phòng Tỉnh Dòng, do chánh văn phòng, Linh Mục Giuse Đinh Hữu Thoại công bố xác định, vụ Bát Nhã "không đơn thuần là việc nội bộ của Phật Giáo." như nhà nước CSVN tuyên truyền, mà là vấn nạn của toàn thể dân tộc. Dòng Chuá Cứu Thế phải lên tiếng bày tỏ quan điểm, lập trường vì qua sự kiện Bát Nhã "đã thấy sự vi phạm trầm trọng đối với các giá trị tâm linh, với nhân phẩm và nhân quyền.". Nhận định về việc Công an giả dạng du đãng hành hung các tu sĩ tại tu viện Bát Nhã, thông báo có đoạn "Việc lăng mạ, ném đá, ném phân, xúc phạm đến các tăng ni và đông đảo Phật tử đến viếng thăm Bát Nhã và mới đây những biện pháp thô bạo, đập phá, hành hung khủng bố đối với các tu sĩ đang tu tập tại đây là không thể chấp nhận được”.
Với những sự kiện nêu trên đa số nhận định, muốn đấu tranh để tìm được sự an bình cho tôn giáo nói riêng và toàn dân tộc nói chung, điều quan trọng là sự đoàn kết. Sự Hiệp thông của Dòng Chuá Cứu Thế với Tu viện Bát Nhã là một điểm son được ghi nhận để đánh dấu cho sự xuất hiện ánh sáng của niền tin trong đoàn kết. Nếu tất cà mọi thành phần dân tộc có thể đi đến sự hiệp thông với nhau, chia sẽ chung một niềm đau, đó chính là sức mạnh cuả dân tộc. Chỉ có sức mạnh dân tộc mới có thể thắng được tất cả những gian trá, bịp bợm, dã man, tàn bạo của CSVN. Tất cả mọi thoả hiệp hay hoà hợp với CSVN sẽ chỉ mang lại sự uất hận, thương đau cho chính bản thân và dân tộc mỗi ngày một thêm đau khổ, đất nước sẽ mỗi ngày một tồi tệ, tan hoang.  

Đoản Khúc Lưu Vong
(Thương về Hoàng Sa)


Đêm vắng lặng, tìm em không định hướng
Vùng mây mù che khuất nẻo chiêm bao
Sóng âm vang uất hận tự phương nào
Từng tuyến lệ rơi đều ru giấc mộng

Tiếng em khóc quyện tròn cơn biển động
Khối tình chung, đành đoạn nước non nhà
Em đi rồi cho thêm trắc trở đời ta
Thương cảnh ngộ, những mảnh đời cô quạnh

Ôi đắng cay, một phương trời giá lạnh
Nhìn non sông, tan tác dáng hao gầy
Thương quê nghèo, tăm tối giữa trời mây
Sóng quằn quại, lời biển Đông phẫn nộ

Ta còn đây, thuyền đời chưa bến đỗ
Mãi lang thang ôm khắc khoải tình nhà
Nợ nước buồn, chưa trọn kiếp phong ba
Ta thúc thủ, nhìn em đi biền biệt

Em ở đâu, phương nào em có biết
Ta còn đây ôm giấc mộng miệt mài
Tận sức người, vượt nguy khó chông gai
Diệt ngạ qủy, đưa em hồi cố quốc

Hãy chờ ta, như một lời định uớc
Cùng dân mình tiêu diệt lũ đảo điên
Khi quê hương không còn bóng bạo quyền
Ngày quật khởi, niềm vui tràn sông núi
 

·  Phạm Thanh Phương

Phạm thanh Phương

Trong những ngày gần đây, một kế hoạch mang tính siêu việt đã được Tiến Sĩ Lê Anh Sắc, một chuyên viên cao cấp của Sở Nội Vụ Hà Nội đang soạn thảo nhằm cải cách, “Đại Học Hoá và Trí Thức Hoá” hệ thống quan chức trong guồng máy nhà nước CSVN. Theo Ts Lê Anh Sắc cho biết thì từ nay đến năm 2020 "Hà Nội phấn đấu 100% cán bộ diện thành ủy quản lý có trình độ tiến sĩ, 100% cán bộ diện UBND thành phố quản lý có trình độ trên đại học, trong đó một nửa cần đạt trình độ tiến sĩ, 100% cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn có trình độ đại học, trong đó 50% trên đại học.". Nếu theo kế hoạch này thì hệ thống nhà nước CSVN chắc chắn sẽ “tiến nhanh, tiến mạnh” vượt bực đi đến “dân giầu nước mạnh” và có lẽ trên thế gian này sẽ không còn một quốc gia nào có thể sánh kịp, dù đó là những quốc gia văn minh tiên tiến nhất của thế kỷ 21 hôm nau.

Bình luận về nguồn tin, đại đa số cho là một chuyện khôi hài, mấy ông “Tiến sĩ giấy” cuả XHCN chắc đã hết chuyện để làm, buồn quá nói cho vui, tạo cho người dân có đề tài để bàn, may ra có thể quên bớt được những đau khổ, nhiêu khê, uất nhục đang xẩy ra cho đất nước. Bới lẽ, nếu chịu khó nhìn vào lịch sử đảng CSVN hơn nửa thế kỷ qua, có lẽ ai cũng biết được cái đặc tính phét lác, đao to buá lớn đã ăn sâu trong xương tủy của từng đảng viên, và đây cũng là cái nét đặc thù có một không hai trên thế gian. Vì vậy, cho dù đảng có nói gì chăng nữa, thì kết quả chắc chắn “Mười voi sẽ không được một bát nước xáo”. Do đó, sự kiện này cũng chẳng được mấy ai quan tâm. Tuy nhiên, đối với một số người am tường CSVN lại cho rằng, kế hoạch của ông Ts Sắc chưa hẳn là bất khả thi, nó có thể bất khả thi với cả thế giới, nhưng đối với chế độ CSVN thì chẳng có gì là khó. Đây chính là “khả năng tư duy đột phá” mà Ts Lê Anh Sắc đã nhấn mạnh trong kế hoạch.
Nói về sự “đột phá” này, trong một cuộc phỏng vấn của ViêtnamNet, Ts Sắc cho biết “Trong hệ thống đào tạo của ta hiện nay cũng như thông lệ quốc tế thì đề xuất ra cái mới, có khả năng tư duy đột phá phải là những người đã được cấp bằng tiến sĩ, được công nhận bởi một hội đồng khoa học cấp nhà nước.". Nói như thế có nghĩa là một khi “được công nhận bởi một hội đồng khoa học cấp nhà nước” thì tất cả bằng cấp đều có giá trị mang tầm vóc “quốc tế”, không cần quan tâm đến thực chất ra sao.

Một câu hỏi được nhiều người đặt ra là cái gọi là “hội đồng khoa học cấp nhà nước”có những thành phần nào, trình độ ra sao mới là điểm quan trọng cần phải nghĩ đến. Vả lại cái “đột phá” mang ý nghĩa như thế nào, đột cái gì và phá cái gì cũng chẳng ai hay. Ngay cái gọi là hội đồng khoa học gì đó của CSVN cũng chảng ai biết họ đã đột phá đựợc cái gì chưa, mà sao từ nhiều năm qua hệ thống giáo dục Việt Nam càng ngày càng “tiến bộ” tới mức thảm hại, chưa từng thấy trong lịch sử.

Nói về sự “tiến bộ” của nến giáo dục Việt Nam sau hơn ba mươi năm “thống nhất đất nước”, mới đây trong một cuộc phỏng vấn, ông Nguyễn Thiện Nhân, Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Giáo Dục CSVN đã từng thú nhận “Hy vọng trong ba năm nữa, trình độ lớp 12 phổ thông bây giờ có thể sẽ tiến bằng lớp 12 của miền Nam Việt Nam trước năm 1975”. Riêng lãnh vực bằng cấp của XHCN, vào tháng giêng năm 2006 trên báo Thể Thao & Văn Hoá CSVN đã xác định “Bằng cấp với nhiều người chỉ để làm đẹp hồ sơ, tạo cơ hội cho sự thăng tiến. Có 1001 lý do để cho ra đời những thế hệ tiến sĩ giấy”, làm kiểng cho chế độ. Do đó, cũng chẳng ai lấy làm ngạc nhiên với những hiện tượng “học tiền, thi hộ” hay “ngồi nhầm lớp” đã và đang xẩy ra nhan nhản trên khắp nẻo đường đất nước. Hơn nữa, theo nhận định chung đa số tại quốc nội cho biết, những văn bằng dưới XHCN thường được đo lường bằng tiêu bốn tiêu chuẩn “Nhất thân, Nhì thế, Tam hồng, Tứ kim”. Bất cứ ai nằm trong một trong bốn tiêu chuẩn này đều có thể trở nên trí thức một cách dễ dàng, muốn bằng gì cũng có, không cần phải lao đao vất vả như những người dân bình thường trong xã hội. Từ đó, cũng chẳng ai thèm để ý đến những hiện tượng sao chép tư liệu, mua bán bằng cấp, tiếm quyền sở hữu trí tuệ như đã và đang xẩy ra. Tất cả được xem như một việc rất bình thường như ăn cơm, uống nước hàng ngày dưới chế độ CSVN.

Trở lại kế hoạch “đột phá” của Ts Tiến Sĩ Lê Anh Sắc đưa ra cũng chẳng phải là một điều mới lạ, không khéo ông lại vướng phải cái tội đang chửi cha chế độ CSVN toàn một lũ ngu dốt, chỉ có ông mới có đuợc cái “Tư duy đột phá” để đi đến “đột phá tiến sĩ” hầu trí thức hoá chế độ. Thực ra nếu ông Ts Sắc chịu khó nghiên cứu để hiểu sâu tí nữa, thì có lẽ chính ông cũng phải hối hận khi biết mình còn u mê, nên đã nhẩy múa như con rối mà không hiểu đảng và nhà nước đã có “tư duy đột phá” ấy từ lậu lắm rồi. Cái “tư duy đột phá” ấy đã được “đảng và nhà nước ta” thực hiện trong suốt chiều dài lịch sử của đảng, nhưng chia ra từng phần, có lúc thì chỉ “đột” không “phá”, có lúc thì lại chỉ “phá” mà không “đột”, tùy theo không gian và thời gian mà thực hiện cho phù hợp hoàn cảnh.

Cũng trong vấn đề này, theo đại đa số người dân ViệtNam nhận định, riêng chữ “đột” thì đảng và nhà nước đã và đang thực hiện trên khắp nẻo giang sơn trong mọi lãnh vực, không những “đột” mà “đột” rất mạnh tay, đến nỗi toàn thể đất nước trở thành một bức tranh bầy hầy nhất thế giới. Bởi lẽ những vết đột quá sâu, rất khó có thể phai mờ dù có được trải qua một chiều dài lê thê của thời gian.

Còn lại chữ “phá” thì miễn bàn, không cần phải đi ngược dòng lịch sử đâu xa, chỉ cần nhìn lại đất nước từ sau năm 1975 cũng sẽ thấy được rõ CSVN đã “phá” đất nước, quê hương như thế nào. Chẳng những phá mà còn phá tận tình để hôm nay Tổ quốc Việt Nam phải mang một hình hài nham nhở chưa từng thấy trên thế giới. Nham nhở tình tinh thần đến thể chất. Nhìn vào đất nước chỉ toàn thấy mất, mất từ cái lớn đến cái bé, mất Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Quan, Bản Giốc, mất lãnh thổ, lãnh hải đến cả người dân cũng mất ruộng, mất vường, thậm chí nhân quyền, nhân phẩm cũng bị mất mát lở loang. Ngoài ra, cũng từ cái “phá” ấy của CSVN mà ngày nay người dân Việt được “thừa hưởng” cả một nền giáo dục lạc hậu, đạo đức suy đồi, xã hội băng hoại,v,v... Phá một mình chưa đủ, đảng và nhà nước CSVN còn tiếp tục cong lưng, uốn lưỡi làm tay sai cho Tầu cộng, để cùng Tầu cộng liên thủ tàn “phá” đất nước Việt Nam qua “Mười sáu chữ vàng” mà ai cũng biết. Nói một cách khác văn chương hơn là đảng và nhà nước đang “Rước Voi về giày mả tổ” theo chiêu thức “Xâm lăng hữu nghị” hay “bốn tốt” gì đó trong vai trò gia nô đối với Trung cộng.

Tóm lại, nhìn vào chế độ CSVN chắc chắn khó có ai dám tin được bất cứ một điều gì, ngoại trừ sự phét lác, đao to, búa lớn mỵ dân. Còn lại đảng và nhà nước toàn là một loại ngu dốt ăn hại đái nát. Cứ nhìn vào hình ảnh các chức sắc giáo dục thì biết được đất nước ra sao. Toàn những vị “đỉnh cao trí tuệ” với những bằng cấp thuộc loại “cao chói lọi”, lúc nào cũng mơ màng “đằng vân, giá vũ” để đưa ra những kế hoạch siêu việt đến nỗi chẳng ai hiểu nó là cái giống gì của thế gian. Như vậy, thử hỏi những vị khoa bảng XHCN như thế này mà ngồi lại xác nhận những mảnh bằng tiến sĩ, thì chẳng hoá ra là một tuồng hề hay sao? Tuy nhiên đối với CSVN, kế hoạch “tư duy đột phá” của Ts Lê Anh Sắc đưa ra không phải là vô ích, không bổ chiều dọc cũng bổ chiều ngang, và có lẽ cũng không cần phải đợi đến năm 2020 đâu, chỉ cần đảng và nhà nước chịu khó khuyến khích và giảm giá bằng cấp “bèo” một chút, thì cán bộ các cấp, kể cả anh công an gác đường hay chị nhân viên thư ký ấp, ai cũng có thể mua được mảnh bằng Tiến sĩ như nhau. Như vậy chỉ cần hai hay ba năm nữa, chế độ có thể tự hào khoe khoang là dưới sự lãnh đạo anh minh của đảng, đất nước đã trở nên “trí thức” nhất thế giới và những mảnh bằng Cử nhân, Tiến Sĩ cũng sẽ bay lả tả “Như Lá Mùa Thu” trên toàn cõi đất nước vậy.

Phạm Thanh Phương